static.webpie.netstatic.webpie.net/files/26/_p/945/quan-thu-tri-yeu-tap-2.… · Web viewNhiều...

Click here to load reader

Transcript of static.webpie.netstatic.webpie.net/files/26/_p/945/quan-thu-tri-yeu-tap-2.… · Web viewNhiều...

Giảng giải ĐỆ TỬ QUY - Tập 1

QUẦN THƯ TRỊ YẾU 360 – QUYỂN 2

QUẦN THƯ TRỊ YẾU 360 – QUYỂN 2

Nhiều tác giả

Biên soạn: Ngụy Trưng, Chử Toại Lương, Ngu Thế Nam,

Tiêu Đức Ngôn

QUẦN THƯ TRỊ YẾU 360

NGUYÊN TẮC TRỊ QUỐC CỦA TRUNG HOA THỜI XƯA

(Quyển 2)

Chuyển ngữ: Diệu Phúc

NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC

MỤC LỤC

7LỜI TỰA QUẦN THƯ TRỊ YẾU

12LỜI TỰA QUẦN THƯ TRỊ YẾU 360

QUẦN THƯ TRỊ YẾU 360 15Quyển 2

15KHÁI QUÁT

21CHƯƠNG I:

HYPERLINK \l "_Toc524102138" ĐƯỜNG LỐI LÃNH ĐẠO CỦA BẬC QUÂN VƯƠNG

221. TU THÂN

332. KÍNH YÊU NGƯỜI THÂN

363. KIỂM ĐIỂM BẢN THÂN

464. TRỌNG DỤNG NHÂN TÀI

525. TIẾP NHẬN LỜI KHUYÊN TỪ ĐẠI THẦN

646. NGĂN CHẶN VU KHỐNG VÀ HÀNH VI XẤU ÁC

707. NHẠY CẢM VÀ SẮC BÉN

78CHƯƠNG II:

HYPERLINK \l "_Toc524102148" NGHỆ THUẬT PHÒ TÁ CỦA CÁC ĐẠI THẦN

791. TẠO LẬP CHÍ KHÍ

832. TRUNG THÀNH TỘT BẬC

863. KHUYÊN CAN

884. TIẾN CỬ NGƯỜI CÓ ĐỨC TÀI

93CHƯƠNG III:

HYPERLINK \l "_Toc524102155" TRÂN TRỌNG ĐỨC HẠNH

941. CHUỘNG ĐẠO

1072. HIẾU THẢO VÀ CUNG KÍNH

1133. NHÂN TỪ VÀ CHÍNH NGHĨA

1234. CHÂN THÀNH VÀ ĐÁNG TIN CẬY

1275. TỰ SỬA MÌNH

1346. KHOAN DUNG

1367.KHIÊM TỐN

1448. CẨN THẬN

1519. KẾT GIAO BẠN HỮU

15410. SIÊNG NĂNG CẦN MẪN ĐỂ NÂNG CAO HỌC VẤN

15811. KIÊN TRÌ BỀN BỈ

16112. ĐỐI NHÂN XỬ THẾ

CHƯƠNG IV: 166ĐIỀU HÀNH ĐẤT NƯỚC

1671. TUÂN THỦ PHÉP TẮC

1802. ĐÁNH GIÁ NHÂN CÁCH

1833. BỔ NHIỆM

1934. CÔNG BẰNG TỘT BẬC

1945. NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

2056. GIÁO DỤC VÀ CẢM HÓA

2287. LỄ NGHI VÀ ÂM NHẠC

2408. THƯƠNG DÂN

2469. KẾ SINH NHAI CỦA NGƯỜI DÂN

25010. HỌC THEO NGƯỜI XƯA

25311. THƯỞNG PHẠT

26012. PHÁP LUẬT

26513. ĐẠO ĐỨC TRONG SỬ DỤNG VŨ LỰC

CHƯƠNG V: 270KÍNH CẨN VÀ THẬN TRỌNG

2711. PHÒNG NGỪA

2742. PHONG TỤC

2783. DẸP YÊN ĐỘNG LOẠN

2824. LƯU Ý NHỮNG DẤU HIỆU BẤT AN

2935. ĐỐI NHÂN XỬ THẾ

2986. THẬN TRỌNG TỪ ĐẦU CHÍ CUỐI

3017. CHĂM SÓC SỨC KHỎE

304CHƯƠNG VI:

HYPERLINK \l "_Toc524102196" SÁNG SUỐT

3051. CHÍNH - TÀ

3062. NGUYỆN VỌNG CỦA NHÂN DÂN

3083. TÀI NĂNG VÀ ĐỨC HẠNH

3094. TẠO BÈ KẾT ĐẢNG

3115. NHẬN BIẾT SỰ VIỆC

3176. NHÂN QUẢ

321BẢNG CHÚ GIẢI

336TÀI LIỆU THAM KHẢO

QUẦN THƯ TRỊ YẾU 360

Ngụy Trưng, Chử Toại Lương, Ngu Thế Nam, Tiêu Đức Ngôn (thời nhà Đường) sưu tầm và biên soạn

Trung tâm Giáo Dục Văn Hóa Trung Hoa, Malaysia tuyển lựa và biên dịch tiếng bạch thoại.

Hoan nghênh sao in và lưu thông, kính mong không tự ý sửa đổi nội dung.

Đơn vị xuất bản: Hiệp hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.

Bản in lần đầu, tháng 3 năm 2017.

QUẦN THƯ TRỊ YẾU

LỜI TỰA

Bộ sách [Quần Thư Trị Yếu] được Đường Thái Tông – Lý Thế Dân (599 – 649) hạ lệnh yêu cầu biên soạn vào đầu những năm Trinh Quán. Khi mới mười sáu tuổi, Thái Tông đã theo cha tòng quân, khởi nghĩa dẹp yên xã hội động loạn, hơn mười năm chinh chiến đằng đẵng. Sau khi lên ngôi vào năm hai mươi bảy tuổi, ngài dừng nghiệp binh để chấn hưng sự nghiệp giáo dục – văn hóa và đặc biệt chú trọng đường lối trị quốc, bình thiên hạ, an định xã hội và mang lại sự phồn vinh cho đất nước.

Thái Tông dũng mãnh tài cao, có tài hùng biện, chỉ tiếc tuổi nhỏ đã phải tòng quân, bởi vậy học hành không được nhiều. Từ tấm gương sai lầm dẫn đến diệt vong của nhà Tùy, ngài cảm nhận sâu sắc rằng, gây dựng cơ nghiệp vốn không dễ, mà để giữ vững thì càng khó hơn. Trong thời kỳ tại vị, ngài luôn luôn khích lệ chúng thần khuyên giải, chỉ ra những điểm bất cập trong quyết sách của triều đình và hạ lệnh cho các đại thần như Ngụy Trưng, Ngu Thế Nam, v.v… thu thập các tư liệu lịch sử về việc trị vì đất nước, để trích ra những tinh hoa trong việc tu thân – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ từ Lục Thư, Tứ Sử, Bách Gia Chư Tử và tập hợp thành sách. Bắt đầu từ Ngũ Đế cho đến triều đại nhà Tấn, từ hơn 14.000 bộ sách và hơn 89.000 cuộn thư tịch cổ, đã chắt lọc được sáu mươi lăm loại điển tịch với tổng cộng hơn 50.000 từ. Đây quả thật là bộ điển tịch quý báu để trị nước, như lão thần Ngụy Trưng đã nói trong lời tựa của bộ sách: “Nếu dùng cho thời nay, xứng đáng là tấm gương và để học tập từ lịch sử của cha ông; khi truyền cho con cháu mai sau, ắt sẽ là bài học quý giá”. Thái Tông yêu thích kiến thức sâu rộng mà ngôn từ tinh giản của bộ sách, hàng ngày tay không rời sách, mà thốt lên rằng: “Để ta được soi lại sự tích xưa mà xử trí với việc, đây là công của các khanh vậy!” Từ đây cho thấy, sự đóng góp của bộ sách này đối với thế nước thái bình thịnh vượng của thời kỳ Trinh Quán chi trị mới to lớn nhường nào! Bộ sách này đã trở thành bộ điển tịch quý báu mà các nhà chính trị cần đọc.

Thời đó, do kỹ thuật khắc in mộc bản của Trung Quốc chưa phát triển, bởi vậy bộ sách này đến đầu thời nhà Tống đã bị thất truyền, trong [Tống Sử] cũng không thấy có ghi chép. Thật may thay, trong Văn khố Kanazawa – Nhật Bản có một bộ [Quần Thư Trị Yếu] hoàn chỉnh do nhà sư Nhật Bản thời đại Kamakura (1192-1330) viết tay; đồng thời vào năm Càn Long thứ sáu mươi thời nhà Thanh, được người Nhật Bản trả về với Trung Quốc – nơi mà bộ sách vốn sinh ra. Nhà xuất bản Thương Vụ Thượng Hải đã tập hợp thành bốn bộ sách và cùng với Đài Loan lần lượt in sao trực tiếp từ bản gốc và phát hành. Vào cuối năm 2010, Tịnh Không may mắn có được bộ sách này, đã xem đi xem lại, và hoan hỷ vô cùng, cảm nhận sâu sắc rằng giáo dục văn hóa của bậc Thánh Hiền xưa kia đích thực có thể đem lại sự an định, hòa bình vĩnh viễn cho toàn thế giới. Điều quan trọng bậc nhất chính là bản thân người Trung Hoa phải thực sự nhận thức được văn hóa truyền thống, đoạn trừ hoài nghi để có được lòng tin. Văn hóa truyền thống của Thánh Hiền chân thật là sự hiển lộ tự tính của tất cả chúng sinh, vượt trên cả thời gian và không gian mà vẫn còn nguyên giá trị.

Điều mấu chốt của việc học tập, nằm ở hai chữ Thành và Kính. Trong [Khúc Lễ] có dạy: “Chớ nên bất kính”. Ngài Khang Hi của triều đại nhà Thanh xưa kia cũng từng nói: “Bậc quân vương đối với dân, phải lấy chữ kính làm gốc”; “Thành và kính, bài học mà tiên tổ truyền lại cũng không ngoài hai chữ này”. Nhà Nho danh tiếng thời nhà Tống – ngài Trình Tử cũng có nói: “Chữ kính hơn mọi điều tà”. Tất cả muốn nói rằng việc tu thân và vun bồi đạo đức, giúp dân cứu đời chỉ cần hai chữ Thành và Kính là có thể viên thành. Còn nếu không có một chút thành kính nào đối với giáo dục của bậc thánh nhân và tiên vương thời xưa, dẫu có đọc vô vàn sách hay, cũng khó nhận được lợi ích chân thật. Ngài Khổng Tử từng nói: “Chỉ thuật lại chứ đâu tự sáng tác, ta tin và yêu mến lời dạy của tiên tổ”.

Trước đây, trong bài diễn thuyết về chủ nghĩa Tam Dân (Chủ nghĩa Tam Dân – Lần giảng thứ 4), ngài Tôn Trung Sơn từng nói: “Sự phát triển khoa học của Châu Âu, sự tiến bộ của nền văn minh vật chất, chẳng qua là việc của hơn hai trăm năm trở lại đây. Nếu nói đến chân đế của triết học chính trị, người Châu Âu vẫn cần lưu tâm đến Trung Quốc. Các ngài đều biết rằng học vấn trên thế giới, giỏi nhất là nước Đức, nhưng hiện tại người nghiên cứu học vấn ở nước Đức vẫn phải nghiên cứu triết học của Trung Quốc, thậm chí là nghiên cứu giáo lý của Đức Phật ở Ấn Độ, để cứu vãn những lệch lạc trong khoa học của họ”.

Tiến sỹ Arnold J.Toynbee của nước Anh lại cho rằng: “Muốn giải quyết vấn đề xã hội của thế kỷ 21, chỉ có học thuyết Khổng – Mạnh và Phật Pháp Đại Thừa”. Nếu tịnh tâm quan sát thế giới hỗn loạn khó lường ngày nay, muốn cứu thế giới, cứu Trung Quốc, chỉ có giáo dục văn hóa truyền thống của Trung Quốc mới thực hiện được. Trí huệ, ý niệm, phương pháp, kinh nghiệm và thành quả trong việc trị quốc mà cha ông truyền lại cho đến ngày nay, đều là kết tinh quý báu được đúc kết từ sự khảo nghiệm qua hàng nghìn năm. Bộ sách [Quần Thư Trị Yếu] vô cùng trân quý! Quả thật có thể hiểu sâu và thực thi, thì mục tiêu đối với thiên hạ thái bình, cuộc sống hạnh phúc của cá nhân đều có thể đạt được một cách tự nhiên; nếu đi ngược lại với đạo nghĩa, tất sẽ khó tránh khỏi tự chuốc lấy tai ương, tai họa khôn cùng. Tịnh Không hiểu sâu sắc rằng, sự xuất hiện trở lại của bộ sách [Quần Thư Trị Yếu] thực sự có sứ mạng thiêng liêng của chính nó, nên đã hoan hỷ ủy thác cho Thư Cục Thế Giới in sao và lưu thông 10.000 bộ, với dự định tặng cho ba miền ở hai bờ eo biển (Trung Quốc, Hồng Kông và Ma Cao, Đài Loan) và các nước, các đảng, các vị lãnh đạo các cấp trên thế giới cùng học tập, như vậy một xã hội hài hòa và thế giới đại đồng sẽ không còn xa nữa. Nay vui mừng khi thấy [Quần Thư Trị Yếu] sắp được lưu thông trở lại, cùng lời đề nghị của nhân giả Diêm Sơ mà kính cẩn có vài lời tựa để biểu đạt lời tùy hỉ tán thán.

Tịnh Không,

Ngày 28 tháng 12 năm 2010,

Hồng Kông.

QUẦN THƯ TRỊ YẾU 360

LỜI TỰA

Bộ sách [Quần Thư Trị Yếu] được tập hợp từ trí huệ, phương pháp, kinh nghiệm và thành quả trong việc tu thân – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ của bậc thánh nhân, tiên vương thời xưa; và cũng là kết tinh văn hóa được tích lũy từ sự khảo nghiệm qua hàng nghìn năm. Bộ điển tịch quý báu này ngoài việc giúp Đường Thái Tông mở ra thời đại Trinh Quán chi trị, đặt nền móng cho sự thịnh vượng kéo dài ba trăm năm của nước Đại Đường; còn có thể đem lại kinh nghiệm trân quý cho các nhà lãnh đạo các cấp ngày nay. Không chỉ có vậy, đối với đại chúng xã hội ở các lĩnh vực khác nhau, thân phận khác nhau; bộ sách này cũng như suối nguồn trí huệ mà làm cho thân tâm an lạc, gia đình hạnh phúc, sự nghiệp tiếp nối bền lâu.

Đạo Sư của Trung Tâm – Lão giáo sư Thích Tịnh Không, mỗi niệm đều không ngừng quan tâm đến sự kế thừa của văn hóa Trung Hoa. Vào cuối năm 2010, may mắn nhờ sự che chở của tổ tiên, bộ điển tịch quý báu này cuối cùng được tặng vào tay của Lão giáo sư. Ông cụ hiểu sâu sắc rằng, bộ sách này chính là liều thuốc tốt để giải quyết các vấn đề xã hội ngày nay, mà vui sướng vô bờ, lập tức ủy thác cho Thư Cục Thế Giới in sao lại và lưu thông. Vào năm 2011, khi Đạo Sư đến thăm Malaysia và thăm thủ tướng Dato’ Sri Mohd Najib Razak và cựu thủ tướng Mahathir Mohamad, có giới thiệu sơ lược về nội dung của bộ sách [Quần Thư Trị Yếu], hai vị trưởng bối thể hiện hết sức mong muốn được đọc bản dịch tiếng Anh. Bởi vậy, Đạo Sư nghĩ đến việc có thể trích lục từ [Quần Thư Trị Yếu], chọn ra ba trăm sáu mươi đoạn trích để dịch ra tiếng bạch thoại và các ngôn ngữ trên thế giới để thuận tiện cho đại chúng xem đọc mỗi ngày. Đạo Sư đã giao nhiệm vụ này cho Trung Tâm và đây chính là nhân duyên để Trung Tâm biên tập bộ sách [Quần Thư Trị Yếu 360]. Đạo Sư dự kiến trong vòng mười năm tới, mỗi năm sẽ chọn ra ba trăm sáu mươi đoạn trích từ [Quần Thư Trị Yếu], đồng thời dịch thành văn tự, ngôn ngữ của các nước và lưu thông trên toàn thế giới. Đạo Sư tin rằng, đây chính là cống hiến lớn nhất của Trung Quốc đối với nền hòa bình của toàn thế giới.

[Trị Yếu] được đúc rút từ Kinh, Sử, Tử (Bách Gia Chư Tử), tổng cộng sáu mươi sáu bộ sách, cùng năm mươi cuốn điển tịch. Mục lục của bộ sách này cũng được lần lượt sắp xếp theo thư mục của Kinh – Sử – Tử, như: Chu Dịch, Sử Ký, Lục Thao, v.v…. Bộ sách [Quần Thư Trị Yếu 360] mà Trung Tâm biên dịch từ bộ sách nguyên bản hoàn chỉnh và được khái quát thành sáu mục đại cương: Quân Đạo (đường lối lãnh đạo của bậc quân vương), Thần Thuật (nghệ thuật phò tá của các đại thần), Quý Đức (trân trọng đức hạnh), Vi Chính (điều hành đất nước), Kính Thận (kính cẩn và thận trọng), Minh Biện (sáng suốt). Trong mỗi mục đại cương lại quy nạp những điểm quan trọng tương quan mà [Trị Yếu] phân tích thành mục lục chi tiết. Hi vọng rằng cách sắp xếp của bộ sách có thể giúp cho người đọc tiếp nhận được tinh thần của bộ sách [Quần Thư Trị Yếu] hoàn chỉnh.

Khi công tác biên dịch bộ sách [Quần Thư Trị Yếu 360] vừa được bắt đầu, chúng tôi đã nhận được sự trợ giúp của rất nhiều nhân giả chí sĩ từ Australia, Trung Quốc Đại Lục, khu vực Hồng Kông và Đài Loan, Singapore, Anh Quốc, Mỹ cùng với Malaysia; nhân đây xin gửi tới lòng biết ơn chân thành.

Do đức hạnh và tri thức của nhóm biên tập của Trung Tâm có hạn, bộ sách này chắc chắn còn rất nhiều sơ suất, kính mong chư vị nhân giả không ngại vất vả mà chỉ dạy. Chúng tôi xin thành tâm chúc phúc đại chúng dưới sự dẫn dắt trí huệ của bậc Thánh Hiền cổ xưa đều được thân tâm hài hòa, gia đình hạnh phúc hòa thuận, sự nghiệp thuận hòa. Đồng thời hi vọng rằng bộ sách này có thể giúp cho xã hội hóa giải xung đột, chấm dứt đối lập, hướng tới một thế giới đại đồng an định – hạnh phúc – viên mãn – hòa bình. Hãy để chúng ta nắm tay nhau, cùng mang lại sự hài hòa.

Trung tâm Giáo dục Văn hóa Trung Hoa, Malaysia,

Kính cẩn đề tựa.

Tháng 8 năm 2014.

QUẦN THƯ TRỊ YẾU 360Quyển 2

KHÁI QUÁT

I. NGUYÊN VĂN

Cũng như cuốn sách trước đó, nội dung biên dịch được dựa trên nội dung tiếng bạch thoại của cuốn [Quần Thư Trị Yếu 360] – Quyển 2, và được biên soạn bởi Trung tâm Giáo Dục Văn Hóa Trung Hoa, Malaysia vào tháng 3 năm 2013. Sáu mươi sáu bộ nguyên tác được các đại thần như Ngụy Trưng,… căn cứ và biên tập nên bộ sách [Quần Thư Trị Yếu] đều là những kinh điển ra đời từ trước thời đại Trinh Quán. Những kinh điển cổ này sau hàng nghìn năm kể từ sau thời nhà Đường, đã được các học giả của triều đình nhiều lần hiệu đính, sửa lỗi in, sưu tầm; có thể có đôi chỗ khác biệt so với các điển tịch tương ứng được xuất bản ngày nay. Ví dụ như, trong “Luận Ngữ”, câu nói mà hầu hết đại chúng ngày nay đều biết: “Tam nhân hành, tất hữu ngã sư yên”, còn bản “Luận Ngữ” mà [Trị Yếu] trích lục lại là: “Ngã tam nhân hành, tất đắc ngã sư yên” (Khi ta cùng chung sống với người, lời nói và cử chỉ của họ, nhất định có điều để ta học tập và noi theo.). Đây cũng lại là một giá trị văn hóa nữa đáng được chú trọng của [Trị Yếu], bộ sách đã bảo lưu được diện mạo nguyên sơ và hoàn chỉnh của các điển tịch cổ thời đầu nhà Đường.

Bộ nguyên bản hiện đang được lưu giữ của [Trị Yếu] có bản sao được lưu trong Văn khố Kanazawa, do tướng quân đời thứ 5 – ngài Hōjō Sanetoki (hay còn gọi là Kanezawa Sanetoki) của thời đại Mạc phủ Kamakura sáng lập, được gọi tắt là [Bản Văn khố Kanazawa]; bản Suruga in chữ đồng vào năm Genna thứ hai – Nhật Bản (1616), gọi tắt là [Bản Genna]; bắt đầu hiệu đính từ năm đầu thời Tenmei (1781), cho đến năm Tenmei thứ sáu (1786) thì hoàn thành và xuất bản lưu thông trở lại, gọi tắt là [Bản Tenmei]; vào những năm Dân Quốc, nhà xuất bản Thương Vụ Thượng Hải trên cơ sở bản Tenmei đã hiệu đính và tái bản, gọi tắt là [Bản Thương Vụ]. Trong mục lục bản Genna và bản Tenmei, tổng cộng có sáu mươi lăm bộ điển tịch, cuốn 46 của bản Văn khố Kanazawa lại có bài “Thời Vụ Luận”, nội dung lại chính là hai đoạn cuối cùng của “Thể Luận” trong cuốn 48 của bản Genna và bản Tenmei; bởi vậy số lượng điển tịch mà [Trị Yếu] căn cứ là sáu mươi sáu bộ. Nhưng bộ sách lưu truyền cho đến nay, vẫn còn thiếu cuốn 4 - Xuân Thu Tả Thị Truyện (thượng), cuốn 13 – Hán Thư 1, cuốn 20 – Hán Thư 8.

Ba trăm sáu mươi câu kinh văn trích lục của bộ sách [Quần Thư Trị Yếu 360] mà Trung Tâm tuyển chọn, tất cả đều chiểu theo nguyên văn của [Trị Yếu], ngoài ra có sao chép tiểu chú giải ở trong đó, và sao chép nội dung cuối trang của bản Tenmei, đồng thời cũng tham khảo nội dung hiệu đính của bản Thương Vụ.

Đối với việc trích lục từ sáu mươi sáu bộ điển tịch của [Trị Yếu], không phải chỉ là việc xử lý cắt gọn mà là trích lục những điểm quan trọng. Ví dụ như cuốn [Lễ Vận Đại Đồng Thiên], bộ sách này được đúc kết thành câu kinh như sau: “Đại đạo chi hành dã, thiên hạ vi công. Tuyển hiền dữ năng. Cố nhân bất độc thân kỳ thân, bất độc tử kỳ tử, sử lão hữu sở chung, ấu hữu sở trưởng, quan quả cô độc phế tật giả, giai hữu sở dưỡng. Thị cố mưu bế nhi bất hưng, đạo thiết loạn tặc nhi bất tác. Thị vị đại đồng” (Việc thực thi đạo lý lớn, thiên hạ này là của tất cả người trong thiên hạ. Lựa chọn người có đức tài để trị vì thiên hạ. Không chỉ coi người thân của mình mới là người thân thích, không chỉ xem con cháu của mình mới là con cháu, để người già có nơi nương tựa, để trẻ em được hưởng nền giáo dục tốt đẹp, người cô quả và người tật bệnh đều có nơi mà an dưỡng. Nếu được như vậy, âm mưu có rồi sẽ bị chế ngự mà tự tan rã, nạn đạo tặc cướp bóc sẽ không còn. Đó được gọi là Đại Đồng). Nếu người đọc muốn tìm hiểu sâu hơn nữa đối với sáu mươi sáu bộ điển tịch, vẫn cần xem đọc toàn văn của bộ điển tịch.

II. THỂ CHỮ VÀ KIỂU CHỮ

Văn tự mà bộ sách này sử dụng là chữ Hán thể chữ khải. Đối với thể chữ khắc trong nguyên văn, như: 已己巳, 曰日, v.v… tất cả đều được cải chính theo nghĩa của văn tự. Những chữ dị thể trong nguyên văn, trừ tên người, địa danh, về cơ bản đều theo nguyên tắc số đông và tập tục thói quen, mà chuyển đổi thành chữ hiện đại thường dùng. Số ít những chữ thông dụng cũng sửa thành chữ hiện đại thường dùng. Nay xin liệt kê những chữ đã sửa như sau (những chữ đặt trong dấu ngoặc được trích từ nguyên văn của bản Tenmei, chữ đứng trước dấu ngoặc là chữ được dùng trong bộ sách này):

為(爲)眾(衆)群(羣)鄰(隣)教(敎)

清(凊)即(卽)偽(僞)慎(愼)舉(擧)

真(眞 )鬥(鬬)跡(迹)既(旣)恥(耻)

災(灾)污(汚)睹(覩)眥(眦)嘗(甞)

遍(徧)乃(廼)並(幷)餒(餧) 別(别)

褒(襃)況(况)棄(弃)劍(劒)慚(慙)

吝(恡)嶄(嶃)銜(衘)奸(姦)蒞(莅、涖)

III. DẤU CÂU

Bộ sách [Quần Thư Trị Yếu] trong bản Văn khố Kanazawa và bản Genna không có dấu ngắt câu, và toàn bộ dấu ngắt câu trong bản Tenmei đều dùng dấu “、” để ngắt câu. Dấu câu trong bộ sách này chủ yếu tham khảo từ bản Tenmei, một số chỗ căn cứ vào bản Thương Vụ hoặc bản đọc của những thư tịch chọn trích dẫn để ngắt câu, tổng thể bộ sách sử dụng dấu câu hiện hành để đánh dấu.

IV. CHÚ THÍCH VÀ NGUYÊN TẮC DỊCH THUẬT.

Chú thích cho bộ sách này với mong muốn đơn giản mà tinh túy. Nếu tiểu chú thích đã có giải thích cho những từ trong nguyên văn, về nguyên tắc sẽ không liệt kê lại trong phần chú thích. Nội dung dịch thuật áp dụng phương pháp kết hợp giữa dịch trực tiếp và dịch ý. Sau khi dịch xong, nếu cảm thấy vẫn chưa viên mãn, thì sẽ phát triển thêm ở sau nội dung biên dịch, để người đọc có thể thâm nhập sâu hơn tinh thần của bậc Thánh Hiền thời xưa.

V. CHÚ THÍCH LÊN KHUÔN IN.

Bộ sách này được chia thành ba phần: nguyên văn, chú thích và tiếng bạch thoại. Phần tiểu chú thích trong nguyên văn, vẫn thể hiện dưới dạng hai hàng kèm chú thích; nội dung hiệu đính ở cuối trang trong bản Tenmei, nay sửa và chèn vào trong nguyên văn, và cũng thể hiện dưới dạng hai dòng kèm chú thích và để phân biệt, nội dung hiệu đính sẽ được đặt trong dấu ngoặc.

Trung tâm Giáo dục Văn hóa Trung Hoa, Malaysia,

Kính cẩn.

Tháng 8 năm 2014.

CHƯƠNG I: QUÂN ĐẠO

[ĐƯỜNG LỐI LÃNH ĐẠO CỦA BẬC QUÂN VƯƠNG]

1. TU THÂN

A. Giới tham.

~ 1 ~

聖人守其所以有,不求其所未得。求其所未得,則所有者亡矣;修其所有,則所欲者至矣。

(卷四十一

淮南子)

Việt ngữ:

Bậc thánh nhân thường an nhiên mà giữ vững tính đức mà mình vốn có, chứ không tham lam mong cầu những thứ mình chưa đạt được. Nếu tham cầu những thứ mình chưa đạt được, ngược lại những thứ đã có sẽ bị mất đi (bởi tham cầu sẽ không có phúc báo, lại có kẻ thậm chí vì tham hối lộ mà làm điều phi pháp, sẽ đem phúc báu mà hao tổn cho đến hết). Nếu tiếp tục tu dưỡng tính đức mà mình vốn có, những thứ mong có được tự sẽ đạt được (bởi vì tính đức có vô lượng trí huệ, đức hạnh, tài năng và phúc báu).

(Cuốn 41. Hoài Nam Tử)

~ 2 ~

絕無益之欲,以奉德義之塗①;棄不急之務,以修功業之基。其於名行,豈不善哉?

(卷二十八

吳志下)

Chú thích:

(1) Tương đương với ‘途’ [đồ], mở rộng để chỉ đường lối, cách thức.

Việt ngữ:

Đoạn tuyệt những dục vọng vô ích để đi theo con đường của đạo đức nhân nghĩa; gác lại những việc không mấy quan trọng để tu tập nền tảng cho việc gây dựng cơ đồ. Điều này đối với thanh danh và phẩm hạnh của chính mình, lẽ nào chẳng phải rất có ích hay sao?

(Cuốn 28. Ngô Chí – Hạ)

~ 3 ~

福生於無為,而患生於多欲。故知足,然後富從之;德宜君人,然後貴從之。故貴爵而賤德者,雖為天子不貴矣;貪物而不知止者,雖有天下不富矣。

(卷八韓詩外傳)

Việt ngữ:

Hạnh phúc có được từ sự biết đủ trong nội tâm chứ không phải từ việc tìm cầu bên ngoài, còn gian nan họa hại lại nảy sinh từ việc quá nhiều tham vọng của con người. Do vậy, một người nếu biết đủ, sự giàu có và sung túc sẽ theo đó mà đến; đức hạnh nếu đủ để lãnh đạo dân chúng, sự tôn quý tất sẽ đến. Bởi vậy, một người mà chỉ xem trọng tước vị và coi thường đức hạnh, dẫu là bậc thiên tử cũng chẳng thể cao quý; kẻ tham lam và mong cầu tiền tài vật chất không biết đủ, dẫu có cả thiên hạ cũng không thể giàu có.

(Cuốn 8. Hán Thi Ngoại Truyện)

~ 4 ~

有以欲多亡者,未有以無欲危者也;有以欲治而亂者,未有以守常①失者也。

(卷四十一

淮南子)

Chú thích:

(1) Lẽ thường, quy định vốn có.

Việt ngữ:

Có kẻ do quá nhiều tham vọng mà bị diệt vong, chứ đâu có người bởi không có dục vọng mà lại rơi vào vòng hiểm nguy; chỉ có kẻ vì muốn cai trị mà trở nên hỗn loạn, chứ không có người bởi tuân theo đạo lý mà phải bị thất bại.

(Cuốn 41. Hoài Nam Tử)

~ 5 ~

三代①之興,無不抑損情欲;三季②之衰,無不肆其侈靡。

(卷二十九

晉書上)

Chú thích:

(1) Ba triều đại: Hạ, Thương, Chu;

(2) Giai đoạn cuối của ba triều đại: Hạ, Thương, Chu.

Việt ngữ:

Sự hưng thịnh của ba triều đại Hạ – Thương – Chu không có lý do gì ngoài việc bậc lãnh đạo tiết chế đối với thất tình ngũ dục của chính mình; sự lụn bại và sa sút vào thời kỳ cuối của ba triều đại này không có nguyên nhân gì ngoài việc xa hoa lãng phí hết mức.

(Cuốn 29. Tấn Thư – Thượng)

~ 6 ~

日月欲明,浮雲蓋之;河水欲清,沙石穢①之;人性欲平,嗜欲害之。夫縱欲而失性,動未嘗正也,以治身則失,以治國則敗。

(卷四十一

淮南子)

Chú thích:

(1) Ô nhiễm, làm vẩn đục.

Việt ngữ:

Nhật nguyệt vốn là muốn được sáng tỏ nhưng lại bị đám mây trôi che khuất; nước sông vốn là muốn được trong xanh nhưng lại bị cát đá làm cho vẩn đục; nhân tính vốn là muốn được tĩnh lặng nhưng lại bị tham vọng khiến cho trở ngại. Nếu thuận theo dục vọng mà đánh mất nhân tính vốn có, vậy thì khi hành vi không được chuẩn xác mà đem tâm thái này để tu thân, bản thân tất sẽ rơi vào sự nguy hại, đem tâm thái này để trị vì đất nước, tất sẽ khiến cho nước nhà lụn bại.

(Cuốn 41. Hoài Nam Tử)

~ 7 ~

天下之愚,莫過於斯,知貪前之利,不睹其後之患也。

(卷十二

吳越春秋)

Việt ngữ:

Trong thiên hạ không có điều gì ngu xuẩn hơn việc này, chỉ ham hố lợi ích trước mắt mà không thấy được hậu họa đằng sau đó.

(Cuốn 12. Ngô Việt Xuân Thu.)

~ 8 ~

今人之所以犯囹圄①之罪,而陷於刑戮②之患者,由嗜欲無厭③,不修度量④之故也。

(卷四十一

淮南子)

Chú thích:

(1) Lao ngục;

(2) Chịu hình phạt hoặc bị xử tội chết;

(3) Thỏa mãn;

(4) Luật pháp, kỉ cương.

Việt ngữ:

Con người sở dĩ phạm tội lao ngục, để rồi phải chịu hậu họa từ các hình phạt hay tội chết, cũng chỉ vì ham muốn dục vọng không bờ bến, (tâm hồn bị đọa lạc) mà không lấy kỷ cương để nghiêm khắc với chính mình.

(Cuốn 41. Hoài Nam Tử.)

~ 9 ~

夫物暴長①者必夭折,功卒②成者必亟壞。

(卷二十二

後漢書二)

Chú thích:

(1) Sinh trưởng một cách nhanh chóng;

(2) Đột nhiên, sau này thường dùng từ ‘猝’ [thốt].

Việt ngữ:

Bất kỳ vật gì nếu sinh trưởng nhanh chóng tất sẽ bị chết yểu, sự nghiệp nếu thành công chóng vánh tất sẽ lụn bại rất nhanh.

(Cuốn 22. Hậu Hán Thư – Tập 2)

B. Cần Kiệm.

~ 10 ~

儉,德之恭①也;侈,惡之大也。

(卷二十九

晉書上)

Chú thích:

(1) Đồng âm với ‘洪’ [hồng] to lớn.

Việt ngữ:

Tiết kiệm chính là đức tính tốt đẹp và vĩ đại, xa xỉ lại là hành vi xấu ác nghiêm trọng (bởi vì tiết kiệm có thể nuôi dưỡng tấm lòng cung kính và yêu thương, còn xa xỉ lại làm nảy sinh hậu họa rất lớn).

(Cuốn 29. Tấn Thư – Thượng.)

~ 11 ~

古言非典義,學士不以經心;事非田桑,農夫不以亂業;器非時用,工人不以措手;物非世資,商賈不以適市。士思其訓,農思其務,工思其用,賈思其常。是以上用足而下不匱。

(卷四十九

傅子)

Việt ngữ:

Thời xưa, lời lẽ không phù hợp với đạo lý của kinh điển, học sĩ sẽ không để tâm; không phải việc canh tác nuôi tằm, người nông dân sẽ không vì thế mà bỏ bê thời vụ; công cụ không thích hợp để sử dụng, người thợ sẽ không động tay để đi làm; vật phẩm không phải là thứ mà xã hội cần đến, thương nhân sẽ không mang chúng ra chợ để bán. Nhân sĩ luôn nghĩ về lời dạy của bậc Thánh Hiền, người nông dân thì nghĩ đến việc đồng áng, người thợ lại nghĩ đến tính thiết thực của công cụ, còn thương nhân luôn nghĩ đến kinh doanh những vật phẩm thường dùng. Bởi vậy, tiêu dùng của người ở trên được đáp ứng đủ đầy, mà nhu cầu muôn dân cũng không đến độ thiếu thốn.

(Cuốn 49. Phó Tử)

C. Trừng phẫn [Kiềm chế nóng giận].

~ 12 ~

損。君子以懲忿窒欲。可損之善,莫善損忿欲。

(卷一周易)

Việt ngữ:

Người quân tử khi thấy Quẻ Tổn (Sơn Trạch Tổn) tất sẽ biết phải khéo mà kiểm soát sự nóng giận và kìm chế dục vọng của chính mình.

(Cuốn 1. Kinh Dịch)

~ 13 ~

秦始皇之無道,豈不甚哉?視殺人如殺狗彘①。狗彘,仁人用之猶有節。始皇之殺人,觸情②而已,其不以道如是。而李斯又深刑③峻法,隨其指而妄殺人。秦不二世而滅,李斯無遺類④。

(卷四十九

傅子)

Chú thích:

(1) Chỉ loài lợn;

(2) Kích động tinh thần;

(3) Hình phạt hà khắc;

(4) Kẻ không được yên thân.

Việt ngữ:

Tần Thủy Hoàng bạo tàn vô đạo, chẳng phải rất nghiêm trọng hay sao? Xem việc giết người như giết chó lợn. Bàn về loài vật, người nhân đức có dùng đến chúng cũng còn phải tiết chế, vậy mà Tần Thủy Hoàng giết người chỉ vì bản thân bị kích động mà thôi. Việc làm không tuân theo đạo nghĩa của hắn đến mức độ như vậy, mà Lý Tư lại còn nhân đó mà thực thi hình phạt và luật pháp hà khắc, giết người tùy tiện theo ý đồ của bản thân. Kết quả là nhà Tần không quá hai đời đã bị mất nước, còn Lý Tư cũng bị tiêu diệt cùng toàn bộ gia tộc.

(Cuốn 49. Phó Tử)

D. Thiên thiện [Hướng thiện].

~ 14 ~

子曰:『見賢思齊焉,見不賢而內自省也。』

(卷九論語)

Việt ngữ:

Khổng Tử dạy rằng: “Khi thấy hiền nhân phải nên nghĩ về việc noi gương họ; còn khi gặp kẻ thất đức, phải nên tự kiểm điểm bản thân (liệu có tình trạng giống như họ chăng)”.

(Cuốn 9. Luận Ngữ)

~ 15 ~

太上樂善,其次安之,其下亦能自強也。

Việt ngữ:

Cảnh giới cao nhất của người là vui với việc hành thiện, kế đến là quen với việc hành thiện, sau cùng là có thể khích lệ bản thân nỗ lực hành thiện.

(Cuốn 35. Tăng Tử)

E. Cải quá [Sửa chữa sai lầm].

~ 16 ~

益。君子以見善則遷,有過則改矣。從善改過,益莫大焉。

(卷一周易)

Việt ngữ:

Người quân tử khi thấy Quẻ Ích (Phong Lôi Ích) tất sẽ hiểu rằng khi thấy lời nói và việc làm tốt đẹp của người, phải cố gắng học theo, nếu có lỗi sai phải lập tức sửa đổi.

(Cuốn 1. Kinh Dịch)

~ 17 ~

人誰能無過?過而能改,善莫大焉。

(卷五春秋左氏傳中)

Việt ngữ:

Có ai mà chưa từng phạm sai lầm? Khi phạm sai lầm mà có thể sửa chữa, không có việc thiện nào lớn hơn thế.

(Cuốn 5. Xuân Thu Tả Thị Truyện – Trung.)

~ 18 ~

太上不生惡,其次生而能夙絕之,其下復而能改。

(卷三十五

曾子)

Việt ngữ:

Cảnh giới cao nhất của người là không có ý niệm xấu ác, tiếp đến là có lỗi lầm mà sớm đoạn tuyệt được, cuối cùng là nhiều lần phạm lỗi nhưng rốt cuộc vẫn sửa đổi được.

(Cuốn 35. Tăng Tử)

~ 19 ~

子曰:『君子不重則不威,學則不固。主忠信,無友不如己者。過則勿憚改。』主,親也。憚,難也。

(卷九論語)

Việt ngữ:

Khổng Tử dạy rằng: “Người quân tử trong nội tâm và bên ngoài nếu không trang nghiêm, sẽ chẳng có uy nghi mà học vấn cũng không có nền tảng vững vàng. Phải nên thân cận với người trung thành tín nghĩa (xem họ là người thầy), chứ đừng nên kết bạn với người không đồng chí hướng, không cùng tư tưởng. Khi có lỗi lầm, đừng nên e sợ mà sửa đổi lại.

(Cuốn 9. Luận Ngữ)

2. ĐÔN THÂN [KÍNH YÊU NGƯỜI THÂN]

~ 20 ~

刑①于寡妻②,至于兄弟,以御③于家邦。刑,法也。寡妻,寡有之妻,言賢也。御,治也。文王以禮法接待其妻,至于其宗族,以此又能為政,治於家邦。

(卷三毛詩)

Chú thích:

(1) Pháp luật, kỷ cương. Chỉ việc dùng lễ nghĩa và kỷ cương để đối đãi (căn cứ theo chú giải của Trịnh Huyền);

(2) Người vợ cả, chính thất;

(3) Trị vì.

Việt ngữ:

Việc tu dưỡng đức hạnh trước tiên là làm tấm gương tốt cho người vợ, luôn luôn lấy lễ nghĩa và kỷ cương mà đối đãi, từ đó mở rộng để làm tấm gương cho anh/chị/em, tiếp đến là có thể đem điều này mà tề gia trị quốc được rồi.

(Cuốn 3. Mao Thi)

~ 21 ~

君之於世子也,親則父也,尊則君也。有父之親,有君之尊,然後兼天下而有之。

(卷七禮記)

Việt ngữ:

Bậc quân vương đối với thế tử, nếu luận về quan hệ thân sơ là người cha, còn bàn về quan hệ trên dưới lại là quân vương. Quân vương đối với thế tử vừa có tình thương yêu của người cha, lại vừa có sự tôn nghiêm của bậc quân vương, rồi sau đó mới có thể trị vì thiên hạ và có được lòng dân.

(Cuốn 7. Lễ Ký)

~ 22 ~

《傳》曰:『周之同盟①,異姓為後。』誠骨肉之恩,爽②而不離。親親③之義,寔④在敦固。未有義而後其君,仁而遺其親者也。

(卷二十六

魏志下)

Chú thích:

(1) Đồng minh: Theo bản lưu hành thường thấy của [Tả Truyện ∙ Ẩn Công Thập Nhất Niên] và [Tam Quốc Chí ∙ Trần Tư Vương Thực Truyện] đều ghi chép là ‘宗盟’ [tôn minh]. Tôn minh chỉ cuộc nghị luận liên minh của thiên tử và chư hầu;

(2) Sai sót, không hòa hợp;

(3) Thương yêu người thân;

(4) Đồng nghĩa với ‘實’ [thực], mang nghĩa đích thực, thực sự.

Việt ngữ:

Trong [Tả Truyện] nói rằng: “Thiên tử của nhà Chu khi họp bàn liên minh với chư hầu, các chư hầu không cùng họ thường ở phía sau”, đích thực là bởi ân tình cốt nhục sâu đậm, dẫu có lỗi lầm cũng không rời xa. Bàn về đạo lý của việc thương yêu quyến thuộc, quả thật phải nên chất phác và kiên định. Chưa từng có hạ thần trung nghĩa lại thờ ơ với quân chủ, mà cũng chưa từng có người nhân đức lại ruồng bỏ người thân.

(Cuốn 26. Ngụy Chí – Hạ)

~ 23 ~

君子篤於親,則民興於仁;故舊不遺,則民不偷①。興,起也。能厚於親屬,不遺忘其故舊,行之美者也,則皆化之,起為仁厚之行,不偷薄。

(卷九論語)

Chú thích:

(1) Khắt khe, không hiền hậu.

Việt ngữ:

Bậc quân tử tại vị, nếu có thể đối xử hết lòng với cha mẹ và anh chị em, nếp sống nhân ái của dân chúng tất sẽ trỗi dậy; nếu không ruồng bỏ bạn hữu và mối quan hệ xưa kia, dân chúng tất sẽ không lạnh nhạt và vô tình với người.

(Cuốn 9. Luận Ngữ)

3. PHẢN THÂN [KIỂM ĐIỂM BẢN THÂN]

~ 24 ~

孔子曰:『人能弘道,非道弘人也。』故治亂廢興在於己,非天降命不可得反也。

(卷十七

漢書五)

Việt ngữ:

Khổng Tử dạy rằng: “Con người có thể đề cao đạo nghĩa, chứ không phải đạo nghĩa đề cao con người.” Bởi vậy, sự an định và động loạn, hưng thịnh hay suy vong của đất nước đều được quyết định bởi chính bản thân bậc quân chủ, chứ không phải là mệnh trời và không thể xoay chuyển.

(Cuốn 17. Hán Thư – Tập 5)

~ 25 ~

子路問君子。子曰:『修己以敬。』敬其身也。曰:『如斯而已乎?』曰:『修己以安百姓。修己以安百姓,堯、舜其猶病①諸②!』病,猶難也。

(卷九論語)

Chú thích:

(1) Khó khăn, không dễ dàng;

(2) Từ kết hợp âm của hai từ ‘之乎’ [chi hồ].

Việt ngữ:

Tử Lộ thỉnh giáo thế nào mới được xem là bậc quân tử. Ngài Khổng Tử đáp rằng:

- Lấy ‘kính’ để tu sửa bản thân, để thân tâm và lời lẽ tất thảy hướng về sự cung kính, mọi điều phải phù hợp với lễ nghĩa. Như thế được coi là bậc quân tử rồi.

Tử Lộ lại hỏi:

- Như thế là đủ thôi sao?

Ngài Khổng Tử lại đáp:

- Tu sửa bản thân để khiến muôn dân được an lạc. Tu sửa chính mình để khiến muôn dân có được niềm an lạc, việc thế này dẫu là bậc quân vương hiền minh như vua Nghiêu, vua Thuấn e rằng cũng khó mà làm được một cách thấu đáo vậy.

(Cuốn 9. Luận Ngữ)

~ 26 ~

主者國之心也,心治①則百節②皆安,心擾則百節皆亂。治猶理也。節猶事也。以體喻也。

(卷四十一

淮南子)

Chú thích:

(1) Tinh thần yên tĩnh bình lặng;

(2) Khớp xương, bộ phận nối khung xương trong cơ thể người.

Việt ngữ:

Bậc quân chủ tựa thể trái tim của đất nước, khi tâm an thì toàn thân đều an định, nếu tâm rối thì toàn thân sẽ rối bời.

(Cuốn 41. Hoài Nam Tử)

~ 27 ~

故天下不正,修之國家;國家不正,修之朝廷;朝廷不正,修之左右;左右不正,修之身;身不正,修之心。所修彌①近,而所濟彌遠。禹②、湯③罪④己,其興也勃焉,正心之謂也。

(卷四十九

傅子)

Chú thích:

(1) Càng thêm, thêm nữa;

(2) [Vũ]: Họ Tự, tên Văn Mệnh, là con trai của ngài Cổn. Hay còn được gọi là Đại Vũ, Hạ Vũ, Nhung Vũ. Sau này được chọn làm người nối ngôi của vua Thuấn, sau khi vua Thuấn băng hà lập tức lên ngôi và lập ra nhà Hạ;

(3) [Thang]: Là hậu duệ của Tử Tiết, họ Tử, tên Hạ, hay còn gọi là Thiên Ất, ông là vị vua sáng lập ra triều đại nhà Thương;

(4) Quy tội cho ai.

Việt ngữ:

Bởi vậy, thiên hạ mà bất an tất phải chỉnh đốn đất nước, đất nước không yên tất phải chỉnh đốn triều đình, triều đình không nghiêm chỉnh tất phải chỉnh đốn các hạ thần ở quanh ta, các hạ thần không đoan chính tất phải tăng cường trí tuệ và đức tài của bản thân, khi bản thân không mẫu mực trước tiên phải điều chỉnh tư tưởng của chính mình. Khi những điều chấn chỉnh càng gần gũi, thì sự thành tựu sẽ càng rộng lớn. Hạ Vũ, Thương Thang vì thường xuyên kiểm điểm lỗi lầm của bản thân, từ đó sự hưng thịnh của đất nước đến rất nhanh. Đây chính là kết quả của việc điều chỉnh tư tưởng của chính mình.

(Cuốn 49. Phó Tử)

~ 28 ~

唯不推心①以況②人,故視用人如用草芥。使用人如用己,惡③有不得其性者乎?古之達④治者,知心為萬事主,動而無節則亂,故先正其心。其心正於內,而後動靜不妄,以率先天下,而後天下履正⑤,而咸保其性也。斯遠乎哉?求之心而已矣!

(卷四十九

傅子)

Chú thích:

(1) Đối đãi bởi sự chân thành;

(2) So sánh, mang nghĩa mở rộng, suy ra;

(3) Đọc là ‘wū’, tương đương với lẽ nào, sao thế;

(4) Thông hiểu, hiểu rõ;

(5) Tự mình thực hiện đạo lý chính nghĩa.

Việt ngữ:

Chính bởi không suy từ mình để cảm thông với người, nên mới xem việc dùng người như dùng cỏ rác. Nếu trọng dụng người khác cũng như trọng dụng chính mình (đồng cảm như chính bản thân) thì sao lại không hiểu được tâm tính của nhân dân (thuận theo lòng dân mà trị vì) chứ? Thời xưa, người có thể thông hiểu đạo lý trị quốc, sẽ hiểu được rằng tâm chi phối mọi việc, hành vi mà không có tiết chế sẽ khiến cho đất nước trở nên động loạn, do vậy trước tiên phải chấn chỉnh tư tưởng và tâm thế của chính mình. Giả như tư tưởng và tâm thế được đoan chính, dẫu là động hay tĩnh, đều sẽ không làm xằng làm bậy, và rồi chính mình là tấm gương cho người trong thiên hạ, người trong thiên hạ tất sẽ thực hành đạo lý chính nghĩa, từ đó đều có thể giữ được bản tính thiện lương của họ. Những yêu cầu này liệu có xa vời không? Chẳng qua là yêu cầu đối với tâm của chính ta mà thôi!

(Cuốn 49. Phó Tử)

~ 29 ~

故上老老①而民興孝,上張張而民興悌,上恤孤而民不背。所惡於上,無以使下;所惡於下,毋以事上。

(卷七禮記)

Chú thích:

(1) Phụng dưỡng người già với đạo nghĩa kính lão.

Việt ngữ:

Bởi vậy, người ở trên mà có thể kính trọng người già, vậy thì nếp sống hiếu kính của muôn dân tất sẽ hưng thịnh; nếu người ở trên mà có thể tôn trọng và phụng sự trưởng bối, vậy thì nếp sống yêu kính của muôn dân tất sẽ hưng thịnh; người ở trên mà có thể đồng cảm và chăm sóc người cô đơn, khổ đau và không nơi nương tựa, vậy thì muôn dân sẽ không ruồng bỏ lẫn nhau. Nếu không mong muốn một vài cách làm của cấp trên đối với mình, thì đừng làm như vậy đối với thuộc cấp; nếu không mong muốn một vài hành vi và biểu hiện của cấp dưới, thì bản thân đừng đối đãi với cấp trên với cách thức như vậy.

(Cuốn 7. Lễ Kí)

~ 30 ~

堯舜率天下以仁,而民從之;桀紂率天下以暴,而民從之。

(卷七禮記)

Việt ngữ:

Vua Nghiêu, vua Thuấn lấy nhân đức mà lãnh đạo thiên hạ, muôn dân sẽ noi gương mà thực hành nhân đức. Hạ Kiệt, Thương Trụ lấy bạo tàn mà hoành hành khắp thiên hạ, muôn dân lại theo đó mà làm những việc xấu xa.

(Cuốn 7. Lễ Kí)

~ 31 ~

夫上之所為,民之歸①也。上所不為,而民或為之,是以加刑罰焉,而莫敢不懲。若上之所為,而民亦為之,乃其所也,又可禁乎?

(卷五春秋左氏傳中)

Chú thích:

(1) Hướng về, ngả theo, thuận theo.

Việt ngữ:

Mọi hành vi của người ở trên, muôn dân sẽ hướng đến mà học theo. Những việc người ở trên không làm, mà trong muôn dân lại có người làm, nếu nhân đây mà xử phạt trừng trị, tất sẽ không có ai còn dám không đề cao cảnh giác. Nếu những việc mà người ở trên làm, trong muôn dân cũng có người làm, đây cũng là lẽ tất nhiên, sao có thể ngăn chặn được đây?

(Cuốn 5. Xuân Thu Tả Thị Truyện – Trung)

~ 32 ~

孔子曰:『人而不仁,疾之以甚,亂也。』故民亂反之政,政亂反之身。身正而天下定。是以君子嘉善①而矜不能,恩及刑人,德潤窮夫②。施惠悅爾,行刑不樂也。

(卷四十二

鹽鐵論)

Chú thích:

(1) Ca ngợi người tốt;

(2) Người thấp hèn.

Việt ngữ:

Khổng Tử dạy rằng: “Đối xử với người bất nhân, mà căm ghét một cách quá đà, vậy thì sẽ lập tức nổi loạn.” Bởi vậy, khi người dân nổi loạn, phải từ việc triều chính mà tìm hiểu nguyên nhân; khi việc triều chính bị rối loạn, phải tìm hiểu nguyên nhân từ chính bản thân người nắm quyền. Khi tư tưởng quan điểm, hành động cử chỉ và ngôn từ đều đúng đắn, thiên hạ tự nhiên sẽ an định. Do vậy, người quân tử thường khen ngợi người lương thiện, lại có thể đồng cảm với những người không thể làm điều thiện đó, đối với những người đang chịu hình phạt mà ban cho ơn huệ, cũng lại ban ân đức cho những người thấp hèn. Khi ban ơn huệ, trong lòng cảm thấy vui sướng; còn khi bất đắc dĩ phải thi hành hình phạt lại cảm thấy buồn khổ.

(Cuốn 42. Diêm Thiết Luận)

~ 33 ~

是以天萬物之覆①,君萬物之燾②也。懷生③之類,有不浸潤於澤者,天以為負;員首④之民,有不霑濡⑤於惠者,君以為恥。

(卷四十七

政要論)

Chú thích:

(1) Bảo vệ, che chở;

(2) Đọc là ‘dào’. Có nghĩa là che phủ, che mát;

(3) Những vật có sinh mạng;

(4) Muôn dân;

(5) Thấm nhuần. Chỉ việc chịu ơn.

Việt ngữ:

Do vậy, trời là chở che vạn vật, bậc quân chủ là bảo vệ vạn vật. Phàm là sinh linh, chỉ cần có một vật không được tưới mát, ông trời sẽ cảm thấy có đôi điều thiếu sót; trong muôn dân, chỉ cần có một người không có được ân huệ của quân vương, bậc quân chủ sẽ cảm thấy đây là nỗi tủi hổ.

(Cuốn 47. Chính Yếu Luận)

~ 34 ~

《象》曰:山上有水,蹇①。君子以反身②修德。除難莫若反身修德也。《彖》曰:蹇,難也,險在前也。見險而能止,智矣哉!

(卷一周易)

Chú thích:

(1) Hành trình gian nan;

(2) Tự xét chính mình.

Việt ngữ:

Trong [Tượng Truyện] nói rằng: “Từ trên núi, nước chảy xuống uốn lượn quanh co, dáng vẻ gian khó, đây chính là tượng trưng của Quẻ Kiển (Thủy Sơn Kiển). Người quân tử khi thấy quẻ này, tất sẽ nghĩ đến khi gặp khó khăn phải nên kiểm điểm bản thân để mà tu dưỡng đức hạnh của chính mình. Trong [Thoán Truyện] cũng nói: Quẻ Kiển tượng trưng cho sự gian khổ, có nghĩa là phía trước có hiểm nguy. Khi thấy tình huống nguy hiểm mà có thể dừng lại, đây là việc làm sáng suốt vậy!

(Cuốn 1. Kinh Dịch)

~ 35 ~

修己而不責人,則免於難。

(卷四春秋左氏傳上)

Việt ngữ:

Tu dưỡng đức hạnh của chính mình mà không đi trách cứ người khác, tất sẽ tránh được hoạn nạn.

(Cuốn 4. Xuân Thu Tả Thị Truyện – Thượng)

4. TÔN HIỀN [TRỌNG DỤNG NHÂN TÀI]

~ 36 ~

仁人也者,國之寶也;智士也者,國之器也;博通①之士也者,國之尊也。故國有仁人,則群臣不爭;國有智士,則無四鄰諸侯之患;國有博通之士,則人主尊。

(卷四十二

新序)

Chú thích:

(1) Hiểu biết rộng, hiểu được các sự - lý và tri thức.

Việt ngữ:

Người nhân đức là báu vật của đất nước, người tài trí là tài sản của đất nước; người có tri thức rộng lớn là điều tôn quý của quốc gia. Bởi vậy, nếu trong nước có người nhân đức, vậy thì quần thần sẽ không tranh quyền đoạt lợi; đất nước mà có bậc trí sĩ, vậy thì đất nước sẽ không còn mối lo chư hầu khắp nơi xâm phạm quấy nhiễu; đất nước mà có người thông hiểu rộng rồi, vậy thì bậc quân vương sẽ được kính ngưỡng.

(Cuốn 42. Tân Tự)

~ 37 ~

尊聖者王;貴賢者霸;敬賢者存;嫚①賢者亡。古今一也。

(卷三十八

孫卿子)

Chú thích:

(1) Khinh rẻ, miệt thị.

Việt ngữ:

Quân chủ mà kính trọng thánh nhân sẽ thống lĩnh được thiên hạ; quân chủ mà coi trọng hiền nhân sẽ lãnh đạo được các chư hầu; quân chủ mà cung kính với người tài năng đức độ, đất nước sẽ được giữ vững; quân chủ mà khinh miệt người có đức tài, đất nước tất sẽ bị diệt vong. Từ cổ chí kim đều như vậy cả.

(Cuốn 38. Tôn Khanh Tử)

~ 38 ~

夫善人在上,則國無幸民。諺曰:『民之多幸,國之不幸。』是無善人之謂也!

(卷五春秋左氏傳中)

Việt ngữ:

Người có đức hạnh mà ở trên cao, đất nước sẽ không có người chỉ biết dựa vào may mắn. Tục ngữ nói rằng: “Nếu đa phần người dân có tâm lý cầu may, đó sẽ là nỗi bất hạnh của đất nước.” Đây chính là nói về việc không có người đức độ nắm quyền ở trên vậy!

(Cuốn 5. Xuân Thu Tả Thị Truyện – Trung)

~ 39 ~

無善人則國從之。從亡也。《詩》曰:『人之云①亡,邦國殄瘁②。』無善人之謂也。故《夏書》曰:『與其殺不辜,寧失不經③。』懼失善也。逸書也。不經,不用常法。

(卷五春秋左氏傳中)

Chú thích:

(1) Là trợ từ trong câu, không có nghĩa cụ thể;

(2) Những từ đồng nghĩa thường được dùng như từ ghép, chỉ sự khốn cùng, khốn khổ;

(3) Luật pháp.

Việt ngữ:

Khi không còn người tài năng đức độ, đất nước sẽ theo đó mà lụn bại. Trong [Kinh Thi] có nói: “Bậc hiền tài mà không còn, đất nước tất gặp tai ương.” Đây là do để mất đi bậc hiền tài vậy. Trong [Hạ Thư] có nói: “Thà bị thiếu sót do không dùng luật pháp, còn hơn việc giết nhầm người vô tội”, chính là lo sợ để mất đi người tài năng đức độ.

(Cuốn 5. Xuân Thu Tả Thị Truyện – Trung)

~ 40 ~

故王者勞於求賢,逸於得人。舜舉眾賢在位,垂衣裳,恭己無為,而天下治。

(卷四十二

新序)

Việt ngữ:

Làm bậc quân vương thường cực nhọc khi tìm kiếm bậc hiền tài, nhưng khi có được rồi lại được thong dong. Vua Thuấn tin dùng rất nhiều người tài năng đức độ, khiến họ đều có được chức vụ phù hợp với năng lực của mình, còn bản thân cứ an nhiên mà trị vì, không phải tra hỏi quá nhiều tới việc triều chính, mọi việc đều không phải đích thân thực hiện, mà vẫn khiến thiên hạ được thái bình.

(Cuốn 42. Tân Tự)

~ 41 ~

古者明王之求賢也,不避遠近,不論貴賤,卑爵以下賢①,輕身②以先士。

(卷三十六

尸子)

Chú thích:

(1) Hạ mình và tôn trọng người có đức tài;

(2) Khiêm nhường hạ thấp thân phận, không ỷ thế.

Việt ngữ:

Bậc quân vương anh minh sáng suốt xưa kia khi tìm kiếm nhân tài cho đất nước, sẽ không màng đến quan hệ thân sơ, không quan tâm địa vị sang hèn, mà buông xuống tước vị của chính mình để chào đón bậc hiền tài, hạ thấp thân phận của chính mình để tiếp đón nhân sỹ có đức hạnh.

(Cuốn 36. Thi Tử)

~ 42 ~

今君之位尊矣,待天下之賢士,勿臣而友之,則君以得天下矣。

(卷三十一

六韜)

Việt ngữ:

Thời nay, địa vị của quân vương tôn quý, nếu đối đãi với bậc hiền tài trong thiên hạ, không coi họ là hạ thần, mà xem như bạn hữu mà đối đãi. Vậy thì quân chủ đã có thể có được thiên hạ rồi.

(Cuốn 31. Lục Thao)

~ 43 ~

周公攝①天子位七年,布衣②之士,執贄③而所師見者十人,所友見者十二人,窮巷白屋④所先見者四十九人,進善者百人,教士者千人,官⑤朝⑥者萬人。當此之時,誠使⑦周公驕而且吝,則天下賢士至者寡矣。

(卷四十三

說苑)

Chú thích:

(1) Đại diện, thay thế;

(2) Mượn nghĩa để chỉ thường dân, bởi vì dân thường thời xưa không được mặc đồ gấm lụa;

(3) Lễ vật mang theo khi lần đầu tiên gặp mặt. Theo phong tục thời xưa, khi yết kiến ai đó sẽ mang theo lễ vật để tặng;

(4) ‘窮巷’ [cùng hạng] ngõ nhỏ vắng vẻ sơ sài; ‘白屋’ [bạch ốc]: nơi ở của thường dân hoặc nhân sĩ nghèo;

(5) Ban chức quan cho ai đó, khiến làm quan;

(6) Thăm viếng;

(7) Giả sử, nếu như.

Việt ngữ:

Trong bảy năm Chu Công nắm quyền thay thiên tử (vô cùng giữ lễ đối với bậc hiền tài, đồng thời không hẹp hòi mà chia sẻ kinh nghiệm, trí tuệ và bồi dưỡng nhân tài), trong số học giả chưa làm quan, số người mà ngài mang theo lễ vật bái kiến theo lễ tiết đối với thầy giáo có mười người, số người mà ngài gặp gỡ theo lễ tiết đối với bạn hữu có mười hai người, số nhân sĩ nghèo ở nơi xóm làng nghèo khó được ưu tiên tiếp kiến có bốn mươi chín người, số người mà có thể đưa ra lời khuyên với ngài bất cứ khi nào có hàng trăm người, số nhân sĩ nhận được chỉ bảo của ngài có hàng nghìn người, số người được đề bạt để phục vụ trong quan phủ triều đình có đến hàng vạn người. Khi đó, giả như Chu Công ngạo mạn và hẹp hòi với người, vậy thì người hiền tài trong thiên hạ đến gặp ngài sẽ rất ít rồi.

(Cuốn 43. Thuyết Uyển)

5. NẠP GIÁN [TIẾP NHẬN LỜI KHUYÊN TỪ ĐẠI THẦN]

~ 44 ~

為人君之務,在於決壅①;決壅之務,在於進下;進下之道,在於博聽;博聽之義,無貴賤同異,隸豎牧圉②,皆得達焉。

(卷四十七

政要論)

Chú thích:

(1) Xóa đi sự che lấp, cách biệt;

(2) Nô dịch, người ở, người chăn trâu nuôi ngựa.

Việt ngữ:

Điều mấu chốt khi làm quân vương là ở chỗ xóa bỏ được sự che đậy giấu giếm; mấu chốt của việc xóa bỏ sự che giấu là ở chỗ để cấp dưới được đưa ra lời khuyên can; phương pháp để cấp dưới đưa ra lời khuyên là ở chỗ lắng nghe các ý kiến từ nhiều chiều; lắng nghe ý kiến từ nhiều chiều chính là có thể không màng đến sự cao thấp sang hèn của cấp dưới, dẫu có là nô dịch, người ở hay người chăn trâu nuôi ngựa cũng có thể để ý kiến của họ được truyền đạt đến nơi.

(Cuốn 47. Chính Yếu Luận)

~ 45 ~

欲知平直,則必準繩①;欲知方圓,則必規矩②;人主欲自知,則必直士。唯直士能正言。

(卷三十九

呂氏春秋)

Chú thích:

(1) Dụng cụ để đo độ bằng phẳng và thẳng hàng của vật thể. ‘準’ [chuẩn] thủy bình đo độ phẳng, ‘繩’ [thằng] mặc thằng, là một loại dây được thấm mực để đo độ thẳng;

(2) Compa và ê ke, hai dụng cụ để hiệu chỉnh hình tròn và hình vuông.

Việt ngữ:

Muốn biết vật thể liệu có ngay thẳng, nhất định phải dựa vào thủy bình và mặc thằng; muốn biết liệu tròn hay vuông, nhất định phải dựa vào compa và ê ke. Bậc quân vương muốn biết được lỗi lầm của chính mình, nhất định phải dựa vào nhân sĩ chính trực.

(Cuốn 39. Lã Thị Xuân Thu)

~ 46 ~

古之賢君,樂聞其過,故直言得至,以補其闕①。

(卷四十九

傅子)

Chú thích:

(1) Sơ hở, thiếu sót.

Việt ngữ:

Bậc quân vương hiền minh xưa kia vui với việc nghe người chỉ ra sai lầm của chính mình. Do đó, khi nghe được lời ngay thẳng, sẽ nhờ đó mà khắc phục khuyết điểm.

(Cuốn 49. Phó Tử)

~ 47 ~

明君蒞眾①,務下之言,以昭外也;敬納卑賤,以誘賢也。其無拒言,未必言者之盡用也,乃懼拒無用而讓②有用也。

(卷四十四

潛夫論)

Chú thích:

(1) Trị vì muôn dân;

(2) Đồng nghĩa với ‘攘’ [nhương] bài xích, loại trừ lẫn nhau.

Việt ngữ:

Bậc quân vương hiền minh khi trị vì muôn dân, buộc phải đón nhận lời của hạ thần để được sáng tỏ tình hình ở ngoài triều đình; cung kính mà tiếp thu từ những người thấp hèn, để thu hút nhân tài. Khi quân chủ không cự tuyệt lời khuyên, chưa hẳn tất cả lời khuyên đều được áp dụng, chỉ là e rằng cự tuyệt những ý kiến không hữu ích sẽ khiến cho ý kiến có giá trị bị bài trừ.

(Cuốn 44. Tiềm Phu Luận)

~ 48 ~

仁君廣山藪①之大,納切直②之謀。

(卷二十二

後漢書二)

Chú thích:

(1) Rừng núi và ao hồ;

(2) Chân thành và thẳng thắn.

Việt ngữ:

Bậc quân vương nhân đức có tấm lòng rộng lớn tựa như núi cao và hồ nước cả, có thể tiếp thu những mưu lược thẳng thắn và chân thành.

(Cuốn 22. Hậu Hán Thư – Tập 2)

~ 49 ~

今群臣皆以邕為戒,上畏不測之難,下懼劍客之害,臣知朝廷不復得聞忠言矣。夫立言無顯過之咎①,用鏡無見玼②之尤③。如惡④立言以記過,則不當學也。不欲明鏡之見玼,則不當照也。願陛下詳思臣言,不以記過見玼為責。

(卷二十四

後漢書四)

Chú thích:

(1) Sai lầm, lỗi sai;

(2) Hiển lộ những tỳ vết hay khuyết điểm nhỏ. ‘見’ đồng nghĩa với ‘現’ [hiện] mang nghĩa hiển lộ, hiển bày. ‘玼’ [tỳ] tỳ vết trên viên ngọc, suy ra để chỉ khuyết điểm, thói xấu;

(3) Tội lỗi, sai lầm;

(4) Căm ghét, căm hận.

Việt ngữ:

Ngày nay, quần thần đều lấy kết cục của Thái Ung để làm bài học cảnh giác, ở trên lo sợ gặp phải tai nạn khó lường, ở dưới lại sợ hãi có thích khách đến ám sát, thần hiểu rằng triều đình sẽ không còn nghe được lời trung tín nữa rồi. Phát biểu ngôn luận sẽ không nên vì chỉ ra lỗi sai mà bị trách phạt, gương sáng sẽ không phải vì soi được vết hoen ố mà bị căm ghét. Nếu căm ghét việc quan lại cầm bút mà ghi chép lại sự thật, vậy cũng đừng nên học tập người xưa (lập ra hàng quan viên); nếu không muốn để gương soi ra vết hoen ố, vậy cũng đừng nên đi mà soi nữa. Mong rằng bệ hạ suy nghĩ kỹ về lời thần đã nói, đừng vì việc chỉ ra tội lỗi và phản ánh vết nhơ mà lại trách mắng đại thần.

(Cuốn 24. Hậu Hán Thư – Tập 4)

~ 50 ~

能容直臣,則上之失不害於下,而民之所患上聞矣。

(卷四十九

傅子)

Việt ngữ:

Nếu có thể tiếp nhận hạ thần chính trực, dẫu quân vương có sai sót cũng sẽ không để lại hậu họa cho muôn dân, mà nỗi cơ cực của muôn dân, bậc quân chủ cũng nghe thấy được.

(Cuốn 49. Phó Tử)

~ 51 ~

君明則臣直。古之聖王,恐不聞其過,故有敢諫之鼓①。

(卷二十六

魏志下)

Chú thích:

(1) Là trống mà triều đình đặt để khi người dân muốn kiến nghị thì đánh lên.

Việt ngữ:

Bậc quân vương mà anh minh sáng suốt, chúng thần bên dưới sẽ chính trực. Bậc quân vương sáng suốt thời xưa chỉ e sợ không nghe được lỗi lầm của bản thân, bởi vậy mà đặt trống cho người khi muốn khuyên giải thì đánh lên, để người lãnh đạo được biết.

(Cuốn 26. Ngụy Chí – Hạ)

~ 52 ~

堯舜之世,諫鼓謗木①,立之於朝,殷周哲王,小人②怨詈③,則洗目改聽,所以達聰明④,開不諱⑤,博採負薪⑥,盡極下情也。

(卷二十三

後漢書三)

Chú thích:

(1) Tương truyền vào thời đại của vua Nghiêu, vua Thuấn, trên con đường đi lại huyết mạch có dựng cây cột gỗ để người dân viết ra lời khuyến cáo ở trên đó, nên được gọi là ‘báng mộc’;

(2) Thường dân;

(3) Oán hận mắng nhiếc. ‘詈’ [lị] mắng nhiếc;

(4) Không e dè kiêng nể;

(5) Người có địa vị thấp kém.

(6) Chỉ những con người nhỏ bé có địa vị thấp kém.

Việt ngữ:

Vào thời đại của vua Nghiêu, vua Thuấn, ở giữa triều đình đặt trống để tiến cử lời khuyên, dựng lên cột gỗ để viết ra lời khuyến cáo. Thánh vương của hai đời Ân – Chu, đối với lời oán hận mắng nhiếc của muôn dân, luôn là kính cẩn mà lắng nghe. Do vậy mới có thể tỏ tường được sự - lý, để người được thẳng thắn nói ra mà không phải e dè kiêng nể, lắng nghe ý kiến của thường dân theo nhiều chiều, tìm hiểu tường tận và toàn diện tình hình của muôn dân.

(Cuốn 23. Hậu Hán Thư – Tập 3)

~ 53 ~

禹之治天下也,以五聲聽。門懸鐘鼓鐸①磬②,而置鞀③,以待四海之士,為銘④於筍簴⑤曰:『教寡人以道者擊鼓;教寡人以義者擊鐘;教寡人以事者振⑥鐸;告寡人以憂者擊磬;語寡人以訟獄者揮鞀。』此之謂五聲。是以禹嘗據一饋而七起,日中而不暇飽食。曰:『吾不恐四海之士留於道路,吾恐其留吾門廷⑦也!』是以四海之士皆至,是以禹朝廷間,可以羅雀⑧者。

(卷三十一

鬻子)

Chú thích:

(1) [Đạc] một loại nhạc cụ thời xưa, kiểu như chuông lắc cỡ lớn, thời xưa thường được dùng khi ban bố mệnh lệnh triều đình hoặc khi có chiến sự và được đúc bằng đồng thau, hình dạng giống như cái chiêng, nhưng có lưỡi, lưỡi có thể làm bằng gỗ hoặc bằng kim loại, bởi vậy mà có đạc gỗ hoặc đạc kim loại;

(2) [Khánh] một loại nhạc cụ dùng để đánh thời xưa, hình dạng giống như cái thước gập, có thể chế tác từ ngọc, đá hoặc kim loại;

(3) [Đào] một loại trống nhỏ có cán (tựa như trống cơm);

(4) Chữ viết được khắc trên các đồ dùng;

(5) Giá để treo chuông hoặc khánh thời xưa. ‘筍’ [duẩn] là giá ngang, ‘簴’ [cự] cây chống dọc;

(6) Rung, lắc;

(7) Nơi ở ngoài cung điện, triều đình;

(8) Nói lên cảnh tĩnh mịch, yên ả của triều đình.

Việt ngữ:

Vua Vũ thông qua năm loại thanh âm để trị vì thiên hạ. Ở cửa triều có treo chuông, trống, đạc và khánh, cạnh đó còn đặt cả trống cơm, mượn đó mà tiếp đón nhân sĩ trong thiên hạ. Ngoài ra, trên giá gỗ treo chuông khánh còn khắc chữ rằng: “Nếu đem đạo lý để chỉ dạy ta hãy đánh trống, nếu đem tín nghĩa để chỉ dạy ta hãy gõ chuông, nếu chỉ dạy ta xử lý việc lớn của đất nước ra sao hãy rung đạc, nói cho ta hay nỗi gian nan của đất nước hãy gõ khánh, cho ta biết việc kiện tụng hãy đánh đào.” Đây chính là năm thanh âm được nói đến. Bởi vậy mà vua Vũ đã từng trong một bữa ăn mà phải bảy lần đứng dậy để xử lý việc triều chính, mãi đến tận chính ngọ mà ăn chưa hết bữa. Vua Vũ từng nói rằng: “Ta không lo lắng việc người tài đức dừng bước ở bên đường, ta chỉ e không kịp thời nghe được những kiến nghị quý báu và xử lý chúng, rồi để họ phải đợi chờ trước cửa triều đình của ta!” Do vậy, dẫu nhân sĩ trong thiên hạ ùn ùn kéo đến, mà triều đình của nhà Vũ vẫn yên ả tĩnh mịch.

(Cuốn 31. Dục Tử)

~ 54 ~

昔高祖①納善若不及,從諫若轉圜②。

(卷十九

漢書七)

Chú thích:

(1) Cao tổ Lưu Bang của triều đại Tây Hán;

(2) Đọc là ‘yuán’, đồng âm với ‘圓’ [viên].

Việt ngữ:

Năm xưa, Hán Cao Tổ đối với việc tiếp nhận lời khuyên chỉ e không kịp thời, việc lắng nghe khuyến cáo phải nhanh như thể tốc độ khi quay vật thể hình tròn vậy.

(Cuốn 19. Hán Thư – Tập 7)

~ 55 ~

通直言之塗,引而致之,非為名也,以為直言不聞,則己之耳目塞。耳目塞於內,諛者順之於外,此三季①所以至亡,而不自知也。

(卷四十九

傅子)

Chú thích:

(1) Thời kỳ cuối của ba triều đại Hạ – Thương – Chu.

Việt ngữ:

Mở rộng con đường cho những lời lẽ chính trực là để thu hút và nhận được lời khuyến cáo, chứ không phải để có được thanh danh, chỉ nghĩ rằng khi không nghe được lời lẽ chính trực, tai mắt của bản thân sẽ bị che khuất, khi tai mắt của bản thân bị che khuất, kẻ a dua rồi sẽ phàm việc gì cũng thuận theo ý họ. Đây chính là nguyên nhân diệt vong của các quân chủ thời kỳ cuối của ba triều đại Hạ – Thương – Chu, mà chính bản thân họ lại không biết được.

(Cuốn 49. Phó Tử)

~ 56 ~

扁鵲不能治不受鍼藥①之疾,賢聖不能正不食(食疑受)善言(善言作諫諍)之君。故桀有關龍逢②而夏亡;紂有三仁③而商滅。故不患無夷吾④由余⑤之論(論作倫),患無桓、穆之聽耳 。

(卷四十二

鹽鐵論)

Chú thích:

(1) Châm cứu, thuốc. ‘鍼’ đồng nghĩa với ‘針’ [châm] kim châm cứu;

(2) Quan Long Phùng5 (hay còn được gọi là Quan Long Bàng) là hạ thần của vua Kiệt. Khi Kiệt cho xây hồ chứa rượu để dùng triền miên suốt đêm dài, Long Phùng ra sức khuyên can thì liền bị giết;

(3) Chỉ ba người Vy Tử, Cơ Tử và Tỷ Can;

(4) Tức Quản Trọng;

(5) Do Dư – người Thiên Thủy thời Xuân Thu. Nghĩ mưu lược cho Tần Mục Công và khiến cho nước Tần được liệt vào hàng thứ năm của thời Xuân Thu.

Việt ngữ:

Biển Thước không thể chữa trị được loại bệnh tật mà không thể tiếp nhận châm cứu và thuốc thang, bậc hiền tài và thánh nhân cũng không thể chấn chỉnh được quân vương không tiếp thu lời khuyến cáo. Bởi vậy, dẫu Hạ Kiệt có Quan Long Phùng nhưng nhà Hạ vẫn là diệt vong; Ân Trụ dẫu có ba bậc hiền tài là Vy Tử, Cơ Tử, Tỷ Can nhưng nhà Thương vẫn là diệt vong. Có thể thấy rằng, không cần lo lắng hạ thần không có kiến giải cao siêu như Quản Trọng hay Do Dư, chỉ e quân vương không thể được như Tề Hoàn Công và Tần Mục Công mà chịu nghe lời khuyên gián.

(Cuốn 42. Diêm Thiết Luận)

6. ĐỖ SÀM TÀ [NGĂN CHẶN VU KHỐNG VÀ HÀNH VI XẤU ÁC]

~ 57 ~

是故為人君者,所與遊①必擇正人,所觀覽必察正象,放鄭聲②而弗聽,遠佞人③而弗近,然後邪心不生,而正道可弘也。

(卷二十五

魏志上)

Chú thích:

(1) Giao du, kết giao;

(2) Vốn chỉ loại âm nhạc của nước Trịnh thời Xuân Thu Chiến Quốc, âm nhạc của nước Trịnh thường là thứ âm nhạc dâm dật phóng túng, về sau âm nhạc phóng đãng, không thanh cao thì được gọi là ‘Trịnh thanh”;

(3) Người khéo nói lời hoa mỹ, a dua bợ đỡ.

Việt ngữ:

Bởi vậy mới nói, làm bậc quân vương, người để kết giao nhất định phải chọn người đứng đắn mẫu mực, thứ để ngắm nhìn nhất định phải chọn hình ảnh quang minh chính đại, bỏ ngoài tai không nghe thứ âm nhạc dung tục, tránh xa không đến gần những kẻ nịnh hót bợ đỡ, có như vậy mới khiến không nảy sinh tâm xấu ác, mà đạo nghĩa chân chính cũng có thể được đề xướng.

(Cuốn 25. Ngụy Chí – Thượng)

~ 58 ~

或問:『天子守在四夷①,有諸?』曰:『此外守也,天子之內守在身。』曰:何謂也?曰:『至尊者,其攻之者眾焉,故便辟②御侍③,攻人主而奪其財;近幸妻妾,攻人主而奪其寵;逸遊伎藝,攻人主而奪其志;左右小臣,攻人主而奪其行;不令之臣,攻人主而奪其事。是謂內寇。』

(卷四十六

申鑒)

Chú thích:

(1) Tứ Di là cách gọi chung của bộ tộc Hoa Hạ thời xưa đối với tộc người thiểu số ở bốn phương, gồm có Đông Di, Tây Giới, Nam Man và Bắc Địch;

(2) Chỉ bậc thần nhỏ ở bên và được quân vương sủng ái;

(3) Người hầu hạ đế vương.

Việt ngữ:

Có người hỏi:

- Việc phòng vệ của thiên tử là phòng ngự sự xâm phạm của các bộ tộc từ khắp nơi, có phải vậy không?

Đáp rằng:

- Đó chỉ là phòng ngự đối với bên ngoài, còn phòng ngự từ bên trong của bậc thiên tử nằm ở chính bản thân.

Lại hỏi rằng:

- Lời này là thế nào?

Đáp lại rằng:

- Người ở vị trí không còn gì cao bằng, người ‘tấn công’ họ sẽ có rất nhiều. Kẻ hầu hạ thì a dua bợ đỡ lấy lòng quân chủ để tranh đoạt lấy lợi ích vật chất; thê thiếp phi tần thì thân cận lấy lòng quân chủ để giành giật sự sủng ái; kẻ ca múa hát nhạc thì phóng túng lấy lòng quân chủ để khiến cho ham hố vui chơi; quan lại kề cận xung quanh thì lấy lòng quân chủ để khiến cho phẩm hạnh không còn mẫu mực; hạ thần có mưu đồ bất thiện lại lấy lòng quân chủ để khiến cho làm hỏng việc lớn. Những điều này có thể nói là giặc từ bên trong vậy.

(Cuốn 46. Thân Giám)

~ 59 ~

奸臣因以似象之言而為之容說①,人主不能別也,是而悅之,惑亂其心,舉動日繆②,而常自以為得道,此有國之常患也。夫佞邪之言,柔順而有文;忠正之言,簡直而多逆。

(卷五十

袁子正書)

Chú thích:

(1) A dua hùa theo để lấy lòng bề trên. ‘說’, đồng nghĩa với ‘悅’ [duyệt] vui vẻ;

(2) Đọc là ‘miù’, có nghĩa là sai lầm, tội lỗi.

Việt ngữ:

Những lời mà gian thần nói mới nghe qua tưởng là đạo lý chính nghĩa là để lấy lòng quân vương, khi quân vương không có khả năng nhận biết và cho là đúng, trong tâm vui sướng, để rồi làm rối loạn tâm tư của chính mình, hành vi ngày càng xa rời đạo nghĩa mà vẫn luôn nghĩ rằng bản thân đang làm là hợp với đạo nghĩa, đây chính là bệnh chung của các quân chủ. Lời lẽ của những nịnh thần đó, êm ái dễ chịu nhưng lại không có giá trị tốt đẹp, còn ngôn từ của hạ thần trung nghĩa chính trực, mộc mạc thẳng thắn nhưng đa phần là khó nghe.

(Cuốn 50. Viên Tử Chính Thư)

~ 60 ~

諂媚小人,歡笑以贊善;面從①之徒,拊節②以稱功。益③使惑者不覺其非,自謂有端晏④之捷、過人之辨⑤而不寤⑥,斯乃招患之旌。

(卷五十

抱朴子)

Chú thích:

(1) Trước mặt thì phục tùng;

(2) Vỗ tay, thể hiện hết sức tán thưởng. ‘拊’ [phủ] vỗ, đánh, gõ; ‘節’ [tiết] là một loại khí cụ để điều chỉnh nhịp điệu trong âm nhạc cổ xưa, thường làm từ trúc, khi gõ vào phát ra âm thanh;

(3) Thêm, hơn nữa;

(4) Tử Cống và Yến Tử;

(5) Đồng âm với ‘辯’ [biện] tài biện luận;

(6) Đồng âm với ‘悟’ [ngộ] giác ngộ, ý thức được.

Việt ngữ:

Kẻ tiểu nhân nịnh hót luôn cười mà khen ngợi là tốt, kẻ bợ đỡ trước mặt luôn vỗ tay ngợi khen công đức. Những người này càng khiến cho người mê mờ không thấy được sai lầm của mình, lại tự cho rằng có được sự nhạy bén như Tử Cống và Yến Tử, lại có cả tài biện luận hơn người mà chẳng thể tỉnh ngộ. Đây chính là những điển hình dẫn đến hậu họa vậy.

(Cuốn 50. Bão Phác Tử)

~ 61 ~

昔李斯教秦二世曰:『為人主而不恣睢①,命之曰天下桎梏②。』二世用之,秦國以覆,斯亦滅族。

(卷二十六

魏志下)

Chú thích:

(1) Phóng túng bạo tàn;

(2) Cái cùm tay chân của phạm nhân thời xưa. ‘梏’ [cốc] cùm tay, ‘桎’ [trất] cùm chân. Tương đương với khóa còng tay xích chân ngày nay.

Việt ngữ:

Trước đây, Lý Tư nói với Tần Nhị Thế: “Làm bậc quân vương nếu không thể thả lỏng bản thân, không ràng buộc gò bó thì đây được xem là để thiên hạ trở thành gông cùm mà trói buộc bản thân.” Tần Nhị Thế đã áp dụng lời của ông, và nước Tần vì thế mà bị diệt vong, toàn bộ gia tộc của Lý Tư cũng bị tiêu diệt.

(Cuốn 26. Ngụy Chí – Hạ)

~ 62 ~

用賢人而行善政,如或譖①之,則賢人退而善政還②。

(卷十五

漢書三)

Chú thích:

(1) Nói xấu phỉ báng, vu khống hãm hại;

(2) Dừng lại, thôi.

Việt ngữ:

Trọng dụng người tài năng đức độ là để thực thi nền chính trị liêm chính. Nếu có kẻ nói lời gièm pha phỉ báng, vậy thì người tài sẽ rời đi, và nền chính trị tốt đẹp rồi sẽ bị phế bỏ.

(Cuốn 15. Hán Thư – Tập 3)

7. THẨM ĐOẠN [NHẠY CẢM VÀ SẮC BÉN]

~ 63 ~

天下之國,莫不皆有忠臣謀士也,或喪師敗軍,危身亡國者,誠在人主之聽,不精不審。

(卷四十八

時務論)

Việt ngữ:

Tất cả quốc gia trong thiên hạ đều là có trung thần và nhân sĩ mưu lược cho đất nước; trong đó có cả quốc gia từng bị hao binh tổn tướng, bại trận, đối diện với hiểm nguy của chính mình, thậm chí là đến độ mất nước. Thực ra đều do tính quyết đoán của quân vương sau khi nghe các kiến nghị, không được nghiêm mật, việc nghiên cứu cũng không được kỹ càng.

(Cuốn 48. Thời Vụ Luận)

~ 64 ~

夫讒人似實,巧言如簧①,使聽之者惑,視之者昏。夫吉凶之效,在乎識善;成敗之機,在於察言。

(卷二十四

後漢書四)

Chú thích:

(1) Diễn tả người nói lời hoa mỹ gây xúc động, tựa như lưỡi gà bên trong cái sênh (một loại nhạc cụ). ‘簧’ [hoàng] chính là tấm lá mỏng đặt trong cái sênh, vu, ống sáo khi rung phát ra âm thanh và được làm bằng trúc, kim loại hoặc bằng vật liệu khác.

Việt ngữ:

Kẻ lừa dối xảo trá khi gặp tưởng như thành thật, những lời lẽ hoa mỹ tựa như lưỡi gà ở trong sênh, khiến người nghe được bị mê hoặc, khiến người nhìn thấy bị lẩm cẩm. Kết quả lành hay dữ là ở chỗ có khả năng nhận biết đâu là thiện; mấu chốt của thành công hay thất bại là có thể suy xét ai mới là người nói lên sự thật.

(Cuốn 24. Hậu Hán Thư – Tập 4)

~ 65 ~

凡有血氣①,茍不相順,皆有爭心。隱而難分,微而害深者,莫甚於言矣。君人②者將和眾③定民,而殊其善惡,以通天下之志者也,聞言不可不審也。

(卷四十九

傅子)

Chú thích:

(1) Huyết mạch và hơi thở;

(2) Là bậc quân vương, trị vì nhân dân;

(3) Khiến cho muôn dân thuận hòa.

Việt ngữ:

Phàm là vạn vật có khí huyết, nếu không cùng nhau hòa thuận, sẽ đều nảy sinh tâm lý cạnh tranh. Trong sinh hoạt của con người, vì sự giấu kín mà khó để phân biệt, từ tình tiết nhỏ mà dẫn đến tai họa lớn, nguyên nhân không có gì ngoài ngôn từ. Làm bậc quân vương thì phải điều hành dân chúng, an định muôn dân, phân biệt thiện ác để thông hiểu tâm ý của người trong thiên hạ, đối với những lời nghe được không thể không suy xét tường tận.

(Cuốn 49. Phó Tử)

~ 66 ~

不用之法,聖主不行;不驗①之言,明主不聽也。

(卷四十一

淮南子)

Chú thích:

(1) Không thiết thực, không có hiệu nghiệm.

Việt ngữ:

Luật pháp không phù hợp với thời đại, bậc quân vương sáng suốt sẽ không thực thi. Ngôn luận không thiết thực, bậc quân vương đức độ sẽ không tin nghe.

(Cuốn 41. Hoài Nam Tử)

~ 67 ~

主察異言,乃覩其萌;主聘儒賢,奸雄乃遁①;主任舊齒②,萬事乃理;主聘巖穴,士乃得實。故傳說陟而殷道興,四皓至而漢祚長,得治之實也。

(卷四十

三略)

Chú thích:

(1) Lưu vong, trốn chạy;

(2) Người đức cao vọng trọng, lão thần, cựu thần.

Việt ngữ:

Bậc quân vương có thể xem xét rõ lời bàn luận bất thường thì mới thấy được mầm mống của tai họa động loạn. Quân vương mà có thể tuyển chọn nho sĩ tài đức song toàn, kẻ gian hùng tất sẽ trốn chạy; quân vương mà tín nhiệm lão thần đã được khảo nghiệm từ lâu, mọi sự mới trị vì được tốt; quân vương mà tìm kiếm các ẩn sĩ không màng danh lợi, đức hạnh chân thật của những nhân sĩ này mới được tuyên dương rộng rãi, để rồi tiến thêm mà phát huy tác dụng của việc giáo hóa.

(Cuốn 40. Tam Lược)

~ 68 ~

齊侯問於晏子曰:『為政何患?』對曰:『患善惡之不分。』公曰:『何以察之?』對曰:『審擇左右,左右善,則百僚①各獲其所宜,而善惡分矣。』孔子聞之曰:『此言信矣。善進則不善無由入矣,不善進則善亦無由入矣。』

(卷四十三

說苑)

Chú thích:

(1) Bá quan.

Việt ngữ:

Tề Hầu hỏi Yến Tử rằng:

- Điều đáng lo trong việc trị vì là gì?

Yến Tử đáp lại:

- Điều đáng lo là không phân biệt rõ người tốt, kẻ xấu.

Tề Hầu lại hỏi:

- Phải khảo nghiệm họ thế nào đây?

Yến Tử đáp rằng:

- Lựa chọn thân tín bên cạnh một cách thận trọng, nếu thân tín bên cạnh mà tốt, vậy thì bá quan văn võ sẽ đều có được vị trí phù hợp với bản thân, được như vậy người tốt, kẻ xấu cũng có thể phân biệt rõ rồi.

Sau khi nghe xong, ngài Khổng Tử dạy rằng:

- Lời này quả thật là vậy. Người đức tài mà được trọng dụng, kẻ bất thiện sẽ không thể tiến vào. Nếu kẻ bất thiện mà được trọng dụng, người đức tài cũng không thể tiến vào được.

(Cuốn 43. Thuyết Uyển)

~ 69 ~

眾人之唯唯,不若直士之愕愕①。

(卷八韓詩外傳)

Chú thích:

(1) Lời lẽ thẳng thắn không kiêng nể.

Việt ngữ:

Dáng vẻ ngoan ngoãn phục tùng của số đông, chẳng bằng lời can ngăn thẳng thắn của một nhân sĩ chính trực.

(Cuốn 8. Hàn Thi Ngoại Truyện)

~ 70 ~

人主莫不欲得賢而用之,而所用者不免于不肖;莫不欲得奸而除之,而所除者不免於罰賢。若是者,賞罰之不當,任使之所由也。人主之所賞,非謂其不可賞也,必以為當矣;人主之所罪,非以為不可罰也,必以為信①矣。智不能見是非之理,明不能查侵潤②之言,所任者不必智,所用著不必忠,故有賞賢罰暴之名,而有戮能養奸之實,此天下之大患也。

(卷五十

袁子正書)

Chú thích:

(1) Quả đúng như vậy, đích thực;

(2) Thấm nhuần dần dần. Nghĩa mở rộng là tích lũy lâu ngày sẽ phát huy tác dụng.

Việt ngữ:

Bậc quân chủ không một ai mà không muốn có được người tài năng đức độ và trọng dụng họ, nhưng trong số người được trọng dụng vẫn không tránh khỏi có người không có đức hạnh; bậc quân vương không một ai mà không muốn bắt lấy kẻ gian tà và diệt trừ chúng, nhưng trong số kẻ bị diệt trừ vẫn không tránh khỏi có người tài đức. Những tình huống thế này mà nảy sinh là do việc thưởng phạt không thích đáng, bổ