THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VỚI CU C CÁCH M NG CÔNG NGHI P L N … 100 tỷ USD, dự án...
Transcript of THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VỚI CU C CÁCH M NG CÔNG NGHI P L N … 100 tỷ USD, dự án...
BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
CỤC THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ QUỐC GIA
TỔNG LUẬN SỐ 11/2017
THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VỚI
CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ 4
Hà Nội, tháng 11/2017
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ....................................................................................................... 1 PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ ................................... 2
1. Một số khái niệm ............................................................................................. 2 2. Vai trò của Thương mại điện tử đối với phát triển kinh tế quốc tế và Việt
Nam .............................................................................................................................. 4 3. Những hạn chế trong việc phát triển thương mại điện tử ............................. 7 4. Xu thế phát triển TMĐT trên thế giới và Việt Nam ......................................... 8
PHẦN II. CÁC HÌNH THỨC THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ ................................. 13 1. Thương mại điện tử và những lợi ích ............................................................ 13 2. Các mô hình hoạt động thực tế ..................................................................... 15 3. Quy định pháp luật của Việt Nam về thương mại điện tử ............................ 15
PHẦN III. CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
ĐỐI VỚI THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ ........................................................................... 19 1. Khái niệm về Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 ........................................... 19 2. Các động lực chính cho CMCN 4.0 ................................................................ 20 3. Cơ hội và thách thức đối với thương mại điện tử ........................................ 21
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 25 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 25
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
1 TMTT Thương mại truyền thống
2 TMĐT Thương mại điện tử
3 I4.0 Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4
4 WTO Tổ chức Thương mại thế giới
5 CNTT Công nghệ thông tin
6 VECITA Cục Thương mại điện tử và kinh tế số
7 VECOM Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam
8 IoT Internet kết nối vạn vật
9 IoS Internet kết nối dịch vụ
1
LỜI NÓI ĐẦU
Thương mại điện tử là chủ đề nhận được nhiều sự quan tâm của nhiều quốc gia vì
những đóng góp lớn của nó cho tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh thế giới đang bước
vào cuộc cách mạng 4.0. Đây là bước phát triển tất yếu, phù hợp với xu thế khi nền
kinh tế truyền thống đang dần bão hoà.
Thái Lan khá nhanh nhạy khi mới đây đã chính thức thành lập Bộ Xã hội và Kinh tế
Kỹ thuật số thay thế cho Bộ Công nghệ Thông tin và truyền thông. Malaysia cũng đã
trích ra từ ngân sách 36 triệu USD để phát triển hệ sinh thái thương mại điện tử. Bên
cạnh đó, nước này cũng thúc đẩy phong trào nhà sáng chế kỹ thuật số với các dự án
100 tỷ USD, dự án triển khai trong 10 năm tới…
Báo cáo hàng quý của Akamai cho biết Việt Nam đứng thứ 95 trên thế giới về tốc
độ kết nối Internet vào cuối năm 2015 nhưng đến quý I năm 2016, vị thứ này đã tăng
37 bậc, xếp thứ 58. Về mặt cơ sở dữ liệu, Việt Nam hiện có nhiều công ty thu thập,
phân tích và xử lý dữ liệu chuyên dụng cho thị trường. Về mặt con người, Việt Nam
cũng không thua kém các nước trong khu vực và trên thế giới về tốc độ tăng trưởng
người sử dụng trong thị trường điện thoại di động, thiết bị điện tử thông minh, và
Internet tốc độ cao.
Cùng với xu thế phát triển công nghệ trên thế giới, Thương mại điện tử ở Việt Nam
cũng đang từng bước hình thành và tăng trưởng mạnh mẽ. Nhà nước đã có nhiều chính
sách hỗ trợ lĩnh vực còn tương đối mới mẻ này nhưng quá trình phát triển, thương mại
điện tử ở Việt Nam trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ 4 còn nhiều vấn đề
cần phải bàn.
Thông qua phân tích, đánh giá thực tiễn triển khai hoạt động Thương mại điện tử ở
Việt Nam và ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đến lĩnh vực này,
Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ quốc gia trân trọng giới thiệu Tổng luận:
“THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN
THỨ 4” nhằm cung cấp bức tranh tổng thể về Thương mại điện tử ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập quốc tế cho các nhà quản lý, hoạch định chính sách, nhà nghiên
cứu, doanh nghiệp và xã hội... với mong muốn đáp ứng những nhu cầu cần thiết cho
việc phát triển thương mại điện tử trong tương lai của Việt Nam.
CỤC THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ QUỐC GIA
2
PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1. Một số khái niệm
1.1. Thương mại truyền thống (TMTT)
Khái niệm
TMTT là sự trao đổi hàng hóa/dịch vụ của ít nhất 2 phía tham gia. Bao gồm tất
cả các hoạt động của các bên tham gia để hoàn thành các giao dịch mua bán. Hệ thống
trao đổi hàng hóa/dịch vụ dựa trên nguyên tắc tiền tệ. Là một kênh phân phối hàng hóa
từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng thông qua các trung gian như nhà phân phối, đại
lý và các điểm bán lẻ như cửa hàng tạp hóa, cửahàng bách hóa…
Đặc điểm
Các hoạt động trong một giao dịch mua bán là các hoạt động mà 2 bên mua và
bán cam kết thực hiện nhằm thực hiện một giao dịch mua bán (chuyển tiền - đơn đặt
hàng - gửi hóa đơn - chuyển hàng đến người mua)
Nhược điểm của mô hình này là công ty hoàn toàn thụ động trong việc kiểm soát
đích đến của hàng hóa và các chương trình khuyến mãi cũng như tính liên tục trong
cung ứng và sự thống nhất của giá cả đến tay người tiêu dùng. Trong khi đó, dự báo
sản lượng tiêu thụ một cách chuẩn xác lại là những yếu tố mang tính quyết định giúp
công ty đảm bảo tính ổn định và tăng trưởng kinh doanh của mình thì hoàn toàn xa
vời.
1.2. Thương mại điện tử (TMĐT)
Khái niệm
Thương mại điện tử (TMĐT), còn gọi là e-commerce, e-comm hay EC, là sự
mua bán sản phẩm hay dịch vụ trên các hệ thống điện tử như Internet và các mạng
máy tính. TMĐT dựa trên một số công nghệ như chuyển tiền điện tử, quản lý chuỗi
dây chuyền cung ứng, tiếp thị Internet, quá trình giao dịch trực tuyến, trao đổi dữ liệu
điện tử (EDI), các hệ thống quản lý hàng tồn kho và các hệ thống tự động thu thập dữ
liệu. TMĐT hiện đại thường sử dụng mạng World Wide Web là một điểm ít nhất phải
có trong chu trình giao dịch, mặc dù nó có thể bao gồm một phạm vi lớn hơn về mặt
công nghệ như email, các thiết bị di động cũng như điện thoại.
Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), “TMĐT bao gồm việc sản xuất,
quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng
Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình, cả các sản phẩm giao nhận cũng
như những thông tin số hoá thông qua mạng Internet”.
Khi nói về khái niệm TMĐT (E-Commerce), nhiều người nhầm lẫn với khái
niệm của Kinh doanh điện tử (E-Business). Tuy nhiên, TMĐT đôi khi được xem là tập
con của kinh doanh điện tử. TMĐT chú trọng đến việc mua bán trực tuyến (tập trung
bên ngoài), trong khi đó kinh doanh điện tử là việc sử dụng Internet và các công nghệ
trực tuyến tạo ra quá trình hoạt động kinh doanh hiệu quả dù có hay không có lợi
nhuận, vì vậy tăng lợi ích với khách hàng (tập trung bên trong).
Như vậy, TMĐT chỉ xảy ra trong môi trường kinh doanh mạng Internet và các
phương tiện điện tử giữa các nhóm (cá nhân) với nhau thông qua các công cụ, kỹ thuật
và công nghệ điện tử. Ngoài ra, theo nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Đại học
Texas (Mỹ), các học giả cho rằng TMĐT và kinh doanh điện tử đều bị bao hàm bởi
nền kinh tế Internet.
Đặc điểm
TMĐT hiện là phương thức giao dịch nhanh nhất, hiệu quả nhất, tận dụng được
tối đa mọi nguồn lực. TMĐT được tiến hành trên mạng: không bị ảnh hưởng bởi
khoảng cách địa lý, không phân biệt nhà cung cấp nhỏ hay lớn; hiện diện trên toàn cầu
3
cho nhà cung cấp, lựa chọn toàn cầu cho khách hàng. Các nhà cung cấp tiếp cận gần
hơn với khách hàng -> tăng chất lượng dịch vụ cho người tiêu dùng.
TMĐT làm tăng chi phí đầu tư cho công nghệ, người sử dụng phải luôn luôn
học hỏi để nâng cao kiến thức sử dụng công nghệ. Các bên tiến hành TMĐT không
tiếp xúc trực tiếp với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước. Giao dịch TMĐT
đều có sự tham gia của ít nhất 3 chủ thể, trong đó có một bên không thể thiếu là người
cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực.
1.3. So sánh TMTT và TMĐT
Về hình thức giao dịch
Nếu như trong Thương mại truyền thống, hình thức của giao dịch là trực tiếp
giữa các chủ thể tham gia giao dịch với nhau, thì trong Thương mại điện tử, hình thức
của giao dịch là hoàn toàn gián tiếp. Điều này có nghĩa là các chủ thể không gặp gỡ
trực tiếp với nhau mà họ giao dịch với nhau thông qua các phương tiện điện tử. Một
đại diện của doanh nghiệp Việt Nam có thể giao dịch nhiều năm với một đại diện của
doanh nghiệp nước ngoài thông qua việc gọi điện thoại để thảo luận với nhau, thông
qua fax để truyền cho nhau các nội dung hợp đồng, thông qua Internet để đàm phán
với nhau về hợp đồng sắp tới… mà không cần thiết phải gặp gỡ trực tiếp với nhau.
Trên thức tế, có nhiều đối tác giao dịch với nhau nhiều năm mà không biết mặt nhau.
Về vấn đề thị trường
Trong thương mại truyền thống, để tìm kiếm một thị trường mới, các doanh
nghiệp phải đến tận nơi, tham gia các hội chợ, triển lãm, các cuộc gặp gỡ trực tiếp.
Như vậy thị trường trong Thương mại truyền thống bị giới hạn về mặt phạm vi, các
doanh nghiệp không thể và không có cơ hội đi tìm hiểu trực tiếp các thị trường trên
toàn thế giới thông qua việc gặp gỡ và trao đổi trực tiếp. Còn đối với Thương mại điện
tử thì thị trường là không biên giới. Một doanh nghiệp có thể mở một Website kinh
doanh trên mạng và thông qua các phương tiện trên mạng có thể quảng bá doanh
nghiệp mình ra thị trường toàn cầu mà không bị giới hạn về mặt phạm vi địa lý. Một
doanh nghiệp ở Châu Mỹ, Châu Âu hay ở Châu Phi có thể dễ dàng tiếp cận với thông
tin doanh nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam thông qua mạng Internet.
Điều này thể hiện lợi thế vượt trội của Thương mại điện tử so với hình thức Thương
mại truyền thống.
Về chủ thể tham gia
Trong Thương mại truyền thống, chúng ta thấy tham gia vào hoạt động giao dịch
chỉ có các chủ thể trực tiếp tham gia dịch với nhau, đó là người mua và người bán.
Người mua hàng tìm đến người bán hàng, hai bên trao đổi, đàm phán trực tiếp với
nhau để tìm kiếm cơ hội hợp tác, kinh doanh với nhau mà không cần có một chủ thể
nào khác tham gia cùng. Còn đối với Thương mại điện tử, bên cạnh chủ thể người
mua, người bán thì luôn luôn có một chủ thể thứ ba tham gia vào quá trình giao dịch
của các bên đó là nhà cung cấp dịch vụ. Ví dụ: Một doanh nghiệp ở Việt Nam kết nối
Internet của FPT để sử dụng thư điện tử giao dịch với một doanh nghiệp ở Mỹ, khi đó
nhà cung cấp dịch vụ ở đây là Công ty FPT đã cung cấp dịch vụ Internet để cho doanh
nghiệp Việt Nam có thể kết nối với doanh nghiệp ở Mỹ.
Về mạng lưới thông tin
Đối với Thương mại truyền thống, mạng lưới thông tin chỉ là phương tiện để trao
đổi dữ liệu còn đối với Thương mại điện tử mạng lưới thông tin chính là thị trường.
Với sự phát triển như vũ bão của các thành tựu về công nghệ thông tin như ngày nay,
đặc biệt là Internet đã giúp cho các doanh nghiệp có thể xây dựng cho mình các “gian
4
hàng ảo” trên mạng mà ở đó doanh nghiệp có thể cung cấp vô số các thông tin giới
thiệu về sản phẩm, dịch vụ của mình để cho các bạn hàng tìm kiếm. Sự phát triển này
còn hình thành nên các Trung tâm thương mại ảo trên Internet với vai trò như một
trung tâm Thương mại thật, tại đó có rất nhiều các thông tin giao dịch về doanh
nghiệp, sản phẩm, dịch vụ nhằm gắn kết người mua và người bán với nhau. Các mạng
lưới thông tin này chính là thị trường cho các doanh nghiệp tìm kiếm bạn hàng và giao
dịch với nhau.
2. Vai trò của Thƣơng mại điện tử đối với phát triển kinh tế quốc tế và Việt Nam
2.1 . Đối với thế giới
TMĐT là xu hướng của thời đại toàn cầu hóa, đây là lĩnh vực tiềm năng để các
doanh nghiệp vừa và nhỏ sinh lợi và phát triển, cơ hội cho những ai muốn khởi nghiệp
kinh doanh theo mô hình mới. TMĐT còn được xem như một trong những giải pháp
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. Các công ty đại diện cho sự thành
công trong lĩnh vực Thương mại điện tử trên thế giới như Amazon, Ebay, Alibaba,... Doanh thu TMĐT bán lẻ của Hoa Kỳ năm 2015 ước đạt khoảng 355 tỷ USD chiếm
khoảng 7,4% tổng doanh thu bán lẻ nước này. Với 384 triệu người sử dụng Internet,
doanh số bán lẻ của cửa hàng trực tuyến ở Trung Quốc tính đến tháng 9/2015 ước đạt
672,01 tỷ USD, tăng 42,1% so với cùng kỳ 2014 và chiếm khoảng 15,9% tổng doanh
thu bán lẻ của Trung Quốc.
Tính riêng về thương mại điện tử B2C, doanh thu xuyên biên giới của khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương năm 2016 đạt 144 tỷ USD, chiếm khoảng 35,9% doanh
thu xuyên biên giới B2C toàn cầu. Con số này được dự đoán sẽ tăng lên 467 tỷ USD
và 47,9% vào năm 2020.
Tại Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế APEC 2017 ngày 08/11/2017,
các Bộ trưởng đã thông qua Khung thuận lợi hóa thương mại điện tử xuyên biên giới
trong APEC. Khung này tập trung vào 5 trụ cột làm việc bao gồm hoàn thiện và hài
hòa hóa khung pháp lý thương mại điện tử của các nền kinh tế APEC nhằm tạo thuận
lợi cho TMĐT xuyên biên giới trong khu vực, thuận lợi hóa thương mại phi giấy tờ
trong khu vực, giải quyết những vấn đề mới và liên quan đến nhiều bên trong thương
mại điện tử xuyên biên giới.
5
Đồng thời, tăng cường xây dựng năng lực để các nền kinh tế APEC có thể hỗ trợ
các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ tham gia vào thị trường thương mại điện tử
xuyên biên giới trong khu vực và trên toàn thế giới, thúc đẩy hoạt động bảo vệ dữ liệu
cá nhân xuyên biên giới thông qua việc thực hiện các chương trình đang triển khai của
APEC.
Theo Bộ Công Thương, thương mại điện tử xuyên biên giới hiện được coi là lĩnh
vực phát triển nhanh nhất của thương mại thế giới. Từ xuất phát điểm gần như bằng 0
ở thời điểm hai thập kỷ trước, đến cuối năm 2016, thương mại điện tử xuyên biên giới
(bao gồm giao dịch doanh nghiệp - doanh nghiệp B2B và bán lẻ B2C) ước tính đạt
1.920 tỷ USD trên toàn cầu. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương có khối lượng giao
dịch lớn nhất thế giới, theo sau là khu vực Tây Âu và Bắc Mỹ.
Tính riêng về thương mại điện tử B2C, doanh thu xuyên biên giới của khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương năm 2016 đạt 144 tỷ USD, chiếm khoảng 35,9% doanh
thu xuyên biên giới B2C toàn cầu. Con số này được dự đoán sẽ tăng lên 467 tỷ USD
và 47,9% vào năm 2020.
Thương mại điện tử xuyên biên giới là công cụ hiệu quả giúp cho các doanh
nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ trong APEC tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, không
cần sự hiện diện vật lý hay thương mại ở thị trường vẫn có thể bán sản phẩm ra toàn
thế giới.
2.2. Đối với Việt Nam
Thương mại điện tử Việt Nam
đang được các chuyên gia nhìn nhận
là đầy tiềm năng khi số người dùng
Internet đang ngày càng tăng. Tuy
nhiên, thách thức với các doanh
nghiệp nội địa không nhỏ bởi ngày
càng nhiều doanh nghiệp nước ngoài
nhảy vào lĩnh vực này. Chưa kể thị
trường đang bước sang giai đoạn phát
triển khá nhanh, nhưng sự chênh lệch
giữa các địa phương ngày càng gia
tăng và có thể dẫn đến nhiều thách
thức mới.
Với sự phát triển của Internet,
3G và các thiết bị di động, đặc biệt là
smartphone cùng hàng ngàn thẻ ngân hàng phát hành mỗi ngày, TMĐT Việt Nam
đang đứng trước thời cơ bùng nổ với doanh thu lên đến 4 tỷ USD trong năm 2015.
Những nỗ lực đẩy mạnh TMĐT của Việt Nam đã mang lại hiệu quả nhất định.
Theo Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (VECITA) của Bộ Công Thương),
TMĐT đang có bước phát triển rất nhanh nhờ hệ thống viễn thông phát triển vượt bậc
với khoảng 1/3 dân số Việt Nam truy cập Internet. Tỷ lệ website có tính năng đặt hàng
trực tuyến là 58%, trong đó tỷ lệ website có tính năng thanh toán trực tuyến là 15%.
Cũng theo kết quả điều tra khảo sát năm 2014 của Cục TMĐT và Công nghệ
thông tin, giá trị mua hàng trực tuyến của một người trong năm ước tính đạt khoảng
145 USD và doanh số thu từ TMĐT B2C đạt khoảng 2,97 tỷ USD, chiếm 2,12% tổng
mức bán lẻ hàng hóa cả nước. Sản phẩm được lựa chọn tập trung vào các mặt hàng
như đồ công nghệ và điện tử (60%), thời trang, mỹ phẩm (60%), đồ gia dụng (34%),
sách, văn phòng phẩm (31%) và một số các mặt hàng khác. Tại Việt Nam, phần lớn
6
người mua sắm sau khi đặt hàng trực tuyến vẫn lựa chọn hình thức thanh toán tiền mặt
(64%), hình thức thanh toán qua ví điện tử chiếm 37%, và hình thức thanh toán qua
ngân hàng chiếm 14%.
Báo cáo mới nhất của eMarketer, một hãng nghiên cứu đến từ Mỹ cũng cho thấy,
Việt Nam là thị trường bùng nổ của smartphone (điện thoại thông minh) với 30% dân
chúng sử dụng. Thời gian online trên thiết bị di động cũng chiếm tới 1/3 ngày của
người tiêu dùng Việt Nam.
Sự phổ cập của Internet, 3G và các thiết bị di động đã chắp thêm sức mạnh cho
TMĐT cất cánh. Căn cứ vào những số liệu trên và ước tính giá trị mua hàng trực tuyến
của mỗi người vào năm 2015 tăng thêm 30 USD so với năm 2013, thì doanh số mua
bán trực tuyến của Việt Nam năm 2015 đạt 4 tỷ USD và 2016 là 5 tỷ USD. Các doanh
nghiệp trong và ngoài nước đang chạy đua cạnh tranh thị phần với nhiều chiến lược
kinh doanh mới, trong đó, kinh doanh trên ứng dụng điện thoại thông minh được dự
báo sẽ diễn ra rất sôi động.
Google đã trở thành thành viên của Hiệp hội TMĐT Việt Nam và không giấu
diếm kỳ vọng thu được 30 triệu USD mỗi năm từ thị trường này. Alibaba và eBay
cũng đã nhanh chân tìm được đại diện chính thức, trong khi Amazon và Rakuten đang
tiến tới việc thiết lập quan hệ đối tác hoặc mua cổ phần tại các hãng TMĐT Việt Nam.
Một số DN Thái Lan, Hàn Quốc cũng đang tìm đường đầu tư, có thể thông qua một
DN khác hoặc tự thực hiện.
Trong nước, mặc dù chưa có tên tuổi nào nổi bật hẳn lên nhưng số lượng các
công ty tham gia lĩnh vực này đã “trăm hoa đua nở” với một số tên tuổi có thể kể đến
như Vật giá, VCCorp, Chợ Điện tử (Peacesoft), Mekongcom....
Hiện nay theo thông tin từ Cục thương mại điện tử và Công nghệ thông tin thì
ngành thương mại điện tử Việt Nam đang có mức tăng trưởng vào khoảng 25% và
lượng doanh nghiệp đầu tư và lĩnh vực này ngày càng nhiều. Hàng loạt website thương
mại điện tử được mọc ra càng nhiều. Các quỹ đầu tư và tập đoàn thương mại điện tử
nước ngoài cũng tích cực mua cổ phần, bỏ tiền đầu tư cho các sàn và các trang web
thương mại điện tử trong nước.
Thị trường thương mại điện tử bắt đầu trở nên sôi động hơn khi nhiều tân binh
mới như Adayroi, SIdeal.vn, v.v… bắt bắt đầu tham gia cuộc đua cạnh tranh với các
sàn thương mại điện tử lớn như Lazada, Tiki, Sendo, Zalora…, Cạnh tranh ngày càng
khốc liệt vì thế các trang web thương mại điện tử kinh doanh lâu năm như Hotdeal.vn,
muabannhanh.com, chotot.vn… cũng tăng cường mở rộng ngành hàng, dịch vụ giao -
nhận, thanh toán.
7
Nhờ sự mở rộng kinh doanh mà các doanh nghiệp lớn mang về lượng doanh thu
tăng vọt, nhiều chương trình khuyến mãi đồng loạt ra đời và ăn theo nhau nhằm mục
đích thu hút khách hàng.
Một số chiến dịch khuyến mãi cạnh tranh với quy mô lớn của các doanh nghiệp
như Lazada, Zalora, Tiki… cũng siêng được triển khai như “Cách mạng mua sắm trực
tuyến” (Lazada), “Online Fever” (Zalora)… Và khi thực hiện chiến dịch khuyến mãi
càng lớn thì doanh thu thu về lại càng cao, có lúc gấp 10-20 lần so với ngày thường.
Song song với cuộc đua riêng lẻ của những doanh nghiệp đó là sự hợp tác của
một số doanh nghiệp thương mại điện tử khác để mở rộng phạm vi kinh doanh và đa
dạng các mặt hàng. Ví dụ như Lazada hợp tác với trang web bán phiếu mua hàng theo
nhóm (groupon) Nhommua.com để mở ngành hàng bán phiếu mua hàng ưu đãi
(voucher), hay FPT Shop cũng bắt đầu đưa các sản phẩm của mình bán trên sàn
thương mại điện tử Lazada.vn,...
3. Những hạn chế trong việc phát triển thƣơng mại điện tử Tiềm năng của thương mại điện tử Việt Nam là không thể phủ nhận. Tuy nhiên,
có một thực tế được các chuyên gia chỉ ra là đang có sự không công bằng trong giao
dịch trực tuyến qua biên giới giữa nhập khẩu và xuất khẩu với các khách hàng cá nhân.
Khách hàng cá nhân mua hàng hóa và dịch vụ trực tuyến từ nước ngoài nhiều hơn so
với khách hàng cá nhân nước ngoài mua sản phẩm trực tuyến từ Việt Nam.
Người tiêu dùng Việt Nam, đặc biệt là thế hệ người tiêu dùng trẻ hiện khá ưa
chuộng mua hàng qua các website thương mại điện tử của nước ngoài như Amazon,
eBay… Lý do của hiện tượng này được Hiệp hội Thương mại điện tử chỉ ra do hàng
hóa của nước ngoài phong phú, đa dạng và phù hợp với người tiêu dùng, đặc biệt là
giới trẻ thành thị. Bên cạnh đó, các nhà bán hàng trực tuyến toàn cầu có uy tín cao.
Ngoài ra, chi phí hoàn tất đơn hàng đối với các hợp đồng mua hàng trực tuyến từ nước
ngoài thấp hơn…
Ở chiều ngược lại, VECOM phân tích: “Phần lớn doanh nghiệp Việt, đặc biệt là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa đầu tư đúng mức cho hoạt động nghiên cứu tìm
hiểu thị hiếu khách hàng nước ngoài để bán hàng trực tiếp, không qua các nhà phân
phối trung gian”. Xét về mức độ uy tín, các nhà bán hàng trực tuyến trong nước cũng
vẫn “đuối” hơn so với nhiều nhà bán hàng trực tuyến toàn cầu. Và một yếu tố khác là
8
nhiều khi chất lượng, mẫu mã sản phẩm quốc nội vẫn lép vế so với sản phẩm tương tự
của nhiều nước khác.
Một vấn đề cũng đang là thách thức với các nhà bán hàng trực tuyến Việt Nam là
cơ sở hạ tầng công nghệ. Chia sẻ của ông Phạm Thông, Giám đốc tiếp thị Lazada tại
VOBF 2017 cho thấy là trong dịp cáp quang AAG bị đứt vào 2,3 tuần vừa qua, doanh
thu của Lazada đã mất tới 30% doanh thu trung bình trong một ngày.
Không chỉ Lazada mà nhiều doanh nghiệp thương mại điện tử và cá nhân kinh
doanh online cũng chật vật trong thời điểm cáp quang bị đứt. Do đó, ông Thông cho
rằng nếu có thể làm cho nền tảng chắc chắn hơn, ổn định hơn, người dùng dễ tiếp cận
hơn thì chắc chắn rảo cản cho thương mại điện tử sẽ càng được thu hẹp.
Hiện quy mô thị trường thương mại điện tử Việt Nam khoảng 4 tỷ USD tính tới
cuối năm 2016, bằng một phần ba mươi so với mức 120 tỷ USD của thị trường Nhật
Bản. Tuy nhiên, nếu xét về tăng trưởng thì Việt Nam là một trong số thị trường có tốc
độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Hiện tốc độ tăng trưởng lĩnh vực thương mại điện
tử của Việt Nam khoảng 35%, cao gấp 2,5 lần Nhật Bản. Do đó, các chuyên gia nhìn
nhận mặc dù vẫn còn những thách thức, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự
phát triển của công nghệ cho phép doanh nghiệp nước này dễ dàng bán hàng trực
tuyến ở nước khác, nhưng thương mại điện tử tại Việt Nam vẫn là một mảnh đất tiềm
năng cho các doanh nghiệp trong nước, trong đó có cả các doanh nghiệp khởi nghiệp
[4].
4. Xu thế phát triển TMĐT trên thế giới và Việt Nam
4.1. Xu hướng toàn cầu
Mô hình kinh doanh trên toàn cầu tiếp tục thay đổi đáng kể với sự ra đời của
TMĐT. Nhiều quốc gia trên thế giới cũng đã đóng góp vào sự phát triển của TMĐT.
Ví dụ, nước Anh có chợ TMĐT lớn nhất toàn cầu khi đo bằng chỉ số chi tiêu bình
quân đầu người, (con số này cao hơn cả Mỹ). Kinh tế Internet ở Anh tăng 10% từ năm
2010 đến năm 2015. Điều này tạo ra động lực thay đổi cho ngành công nghiệp quảng
cáo.
Trong số các nền kinh tế mới nổi, sự hiện diện của TMĐT ở Trung Quốc tiếp tục
được mở rộng. Với 384 triệu người sử dụng Internet, doanh số bán lẻ của cửa hàng
trực tuyến ở Trung Quốc đã tăng 36,6 tỷ USD năm 2009 và một trong những lý do
đằng sau sự tăng trưởng kinh ngạc là cải thiện độ tin cậy của khách hàng. Các công ty
bán lẻ Trung Quốc đã giúp người tiêu dùng cảm thấy thoải mái hơn khi mua hàng trực
tuyến.
TMĐT cũng được mở rộng trên khắp Trung Đông. Với sự ghi nhận là khu vực có
tăng trưởng nhanh nhất thế giới trong việc sử dụng Internet từ năm 2000 đến năm
2009, hiện thời khu vực có hơn 60 triệu người sử dụng Internet. Bán lẻ, du lịch và chơi
game là các phần trong TMĐT hàng đầu ở khu vực, mặc dù có các khó khăn như thiếu
khuôn khổ pháp lý toàn khu vực và các vấn đề hậu cần trong giao thông vận tải qua
biên giới. TMĐT đã trở thành một công cụ quan trọng cho thương mại quốc tế không
chỉ bán sản phẩm mà còn quan hệ với khách hàng.
4.2. Chỉ số thương mại điện tử
Việc đánh giá tình hình phát triển TMĐT của một quốc gia hay một vùng lãnh
thổ, có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách và pháp luật cũng
như các nhà đầu tư. Trên quy mô toàn cầu, những tổ chức như ITU hay EIU hàng năm
đưa ra các chỉ số định lượng về sự phát triển công nghệ thông tin hay kinh tế số.
Ở Việt Nam, Hiệp hội TMĐT Việt Nam (VECOM) đã tiến hành hoạt động xây
dựng Chỉ số TMĐT lần đầu tiên vào năm 2012. Chỉ số TMĐT (viết tắt là EBI từ tiếng
9
Anh E-Business Index) được xây dựng dựa trên bốn nhóm tiêu chí lớn. Nhóm thứ nhất
là nguồn nhân lực và hạ tầng công nghệ thông tin. Nhóm thứ hai là giao dịch DN với
người tiêu dùng (B2C). Nhóm thứ ba là giao dịch giữa DN với DN (B2B). Nhóm thứ
tư là giao dịch giữa chính phủ với DN (G2B). EBI sẽ giúp các đối tượng quan tâm đến
TMĐT nhanh chóng xác định được mức độ triển khai TMĐT trên phạm vi cả nước
cũng như tại từng địa phương, sự tiến bộ qua các năm và gợi ý cho mỗi địa phương
những giải pháp cần thiết để nâng cao ứng dụng TMĐT [1]
4.3. Phát triển mở rộng lĩnh vực kinh doanh
Các doanh nghiệp thương mại điện tử như Công ty cổ phần VCCorp
(muachung.vn, rongbay.com, enbac.com…), Công ty cổ phần Vật giá (vatgia.com),
Công ty cổ phần giải pháp phần mềm Hòa Bình-Peacesoft (chodientu.vn,
nganluong.vn, shipchung.vn)… đã tích cực mở rộng các dịch vụ liên quan đến hoạt
động kinh doanh trực tuyến. Đây sẽ là một hướng phát triển, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp phát triển một cách bền vững.
Nhiều doanh nghiệp lớn đã dựa trên nền tảng thương mại điện tử có sẵn để sẽ
tiếp tục gia tăng hoạt động kinh doanh trực tuyến của mình, với mục đích sở hữu một
hệ sinh thái đa dạng với nhiều trang web thương mại điện tử, đáp ứng nhiều loại nhu
cầu tiêu dùng như mua hàng theo nhóm, rao vặt trực tuyến, đặt thức ăn trực tuyến…
Các doanh nghiệp thương mại điện tử trong nước đang có nhu cầu lớn về dịch vụ
hoàn tất đơn hàng để hoàn thiện quy trình kinh doanh nhưng hiện tại vẫn chưa có
nhiều đơn vị cung cấp dịch vụ này. Trong khi đó, một số sàn thương mại điện tử lớn
đã sớm triển khai dịch vụ này nhằm tăng cường chất lượng dịch vụ, khép kín quy trình
làm hài lòng khách hàng.
4.4. Thương mại di động đang được quan tâm
Xu thế chuyển qua kinh doanh trên nền tảng di động, thiết bị di động… đang
ngày càng trở nên phát triển và rõ rệt. Cùng với sự thay đổi thuật toán của Google, ưu
tiên cho những website thân thiện với thiết bị di động. Số lượng người dùng sử dụng
các thiết bị di động ngày càng nhiều vì thếcác doanh nghiệp như Lazada.vn, Sendo.vn,
Zalora.vn, Tiki.vn… đã nắm bắt được xu hướng và tập trung phát triển kinh doanh trên
nền tảng di động với các ứng dụng di động, thiết kế web có giao diện thân thiện với
điện thoại thông minh, máy tính bảng.. sẽ thu hút được số đông người tiêu dùng có
thói quen lướt web bằng thiết bị di động.
10
Ở một khía cạnh khác, thị trường thương mại điện tử chỉ thích hợp với những
doanh nghiệp có đủ sức về tài chính mới có thể trụ vững và chạy được đường dài trên
cuộc đua khốc liệt này. Những doanh nghiệp nhỏ không đủ tiềm lực tài chính rất dễ bị
đóng cửa nửa đường. Bởi kinh doanh thương mại điện tử phải kiên nhẫn vì người dùng
Việt Nam chỉ đang mới làm quen với với cách thức mua sắm trực tuyến, vì thế nếu
không có đủ tiềm lực thì khó mà kiên nhẫn được. Năm 2015-2016 có nhiều doanh
nghiệp phải đóng cửa nhưng hiện tại năm 2017 này đã xuất hiện thêm rất nhiều doanh
nghiệp mới, với sự quay lại này, nhiều thị trườngthương mại điện tử hứa hẹn sẽ đem
lại nhiều kỳ vọng mới cho Việt Nam như những nước khác [3].
4.5. Dự báo tăng trưởng thương mại điện tử năm 2017
Ông Nguyễn Hữu Tuấn - đại diện VETICA-Bộ Công Thương cho biết: "Thương
mại điện tử Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển nhanh, chính sách pháp luật
cho thương mại điện tử về cơ bản đã hoàn thành".
Về nền tảng hạ tầng công nghệ thông tin, nghiên cứu của Nielsen Việt Nam cho
thấy hiện nay trung bình một người Việt Nam sở hữu 1,3 chiếc điện thoại, trong đó
70% là smartphone. Hạ tầng công nghệ vững vàng là nền tảng để thương mại điện tử
Việt Nam tạo ra doanh số 5 tỷ USD trong năm qua.
Người Việt ưa thích công nghệ cao là nền tảng phát triển của hạ tầng công nghệ
Vào tháng 3/2017, tại Diễn Đàn “Toàn cảnh về TMĐT Việt Nam” đã đưa ra công
bố:
11
Nhìn vào biểu đồ, chúng ta thấy rõ sự tăng trưởng vượt trội qua từng năm từ năm
2012 - 2016, và ước tính mỗi năm doanh thu của thương mại điện tử sẽ tăng 20% trở
lên. Mục tiêu năm 2020 doanh thu giao dịch của Thương Mại Điện Tử là 10 tỷ đô
chiếm tỉ trọng 50% tổng mức bán lẻ trong cả nước.Tuy nhiên, so với thị phần thương
mại điện tử của Việt Nam chỉ bằng 1% so với Mỹ và 3% so với Nhật. Chính vì thế,
đây là vùng đất màu mỡ mà các doanh nghiệp đều muốn khai thác hết mức.
Nói về tiềm năng phát triển của thương mại điện tử Việt Nam trong năm 2017 và
những năm tiếp theo, bà Nguyễn Hương Quỳnh - TGĐ Nielsen Việt Nam cho biết:
"Hiện nay những sản phẩm được mua nhiều chủ yếu là quần áo thời trang, sách báo,
vé máy bay, đồ điện tử, điện thoại và đồ gia dụng. Nhưng tốc độ tăng trưởng thương
mại điện tử sẽ rất hứa hẹn ở các ngành hàng chăm sóc cá nhân, mỹ phẩm, sữa, sản
phẩm của em bé".
Theo chỉ số xếp hạng năm 2017, chỉ số thương mại điện tử cho thấy vẫn tồn tại
khoảng cách số rất lớn giữa các địa phương. Số liệu thống kê giá trị Ngày mua sắm
trực tuyến năm ngoái cho thấy tỷ trọng giá trị mua sắm trong một ngày của TP.HCM
là 37%, Hà Nội 35% và các tỉnh, thành khác 28%.
Cũng trong một số liệu đo lường sức mua, giá trị mua sắm của các ngành hàng tiêu
dùng nhanh thì thị trường Hà Nội và TP.HCM chiếm 72%. Có thể nói, tiềm năng các
thị trường ngoài 2 thành phố lớn nhất nước là rất cao cũng như dư địa phát triển của
thương mại điện tử Việt Nam đang là mảnh đất màu mỡ chờ khai phá.
Với những điều kiện thuận lợi trên, dự báo có 5 xu hướng sẽ dẫn dắt thương mại
điện tử phát triển trong những năm tới, trong đó xu hướng gia tăng kết nối trong thế
giới số là chính.
12
Theo bà Nguyễn Hương Quỳnh, 5 xu hướng đó là gia tăng kết nối, gia tăng đô thị
hoá, người tiêu dùng kết nối, những đột phá về thanh toán điện tử và cải tiến mô hình
kinh doanh.
Ở xu hướng kết nối, người tiêu dùng Việt Nam được cho là yêu thích công nghệ
cao. Cứ 130 người thì 100 người có 2 điện thoại di động. Trong đó người tiêu dùng
thành thị ở trên mạng 24,7 giờ/tuần, chỉ thấp hơn Singapore một ít. Ngày nay người
tiêu dùng ngày càng có nhiều cách kết nối hơn và họ dành nhiều thời gian trên mạng
hơn.
Xu hướng đô thị hóa được sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong những năm tới, lối
sống thành thị vì vậy tiếp tục phát triển. Dự kiến dân số thành thị sẽ đạt 40% vào năm
2020.
Cùng với chính sách phát triển thành phố vệ tinh, cơ hội phát triển thương mại điện
tử không dừng ở TP.HCM và Hà Nội. Việt Nam hiện có khoảng 700.000 cửa hàng tạp
hóa, cửa hàng tiện lợi. Vẫn còn rất nhiều người mua bán ở các kênh mua sắm truyền
thống. Nếu thương mại điện tử giành được một phần thị trường này thì doanh số tăng
trưởng rất cao.
Trong kỷ nguyên số, người tiêu dùng kết nối là mối quan tâm hàng đầu của sự phát
triển. Họ là những người trẻ thành thị ưa thích những trải nghiệm mới và sẵn sàng chi
tiêu. Quy mô của người tiêu dùng kết nối cũng lớn hơn tầng lớp trung lưu rất nhiều với
hơn 800 triệu người tiêu dùng kết nối so với 782 triệu người thuộc tầng lớp trung lưu
trên toàn cầu. Ở khu vực Đông Á, châu Á - Thái Bình Dương, số lượng người tiêu
dùng kết nối trên 300 triệu so với 296 triệu thuộc tầng lớp trung lưu.
Thanh toán trực tuyến, trả tiền khi giao hàng là những hoạt động quan trọng của
thương mại điện tử. Phương thức thanh toán đã và đang tiếp tục chuyển dịch dần về
thanh toán trực tuyến, nhưng hiện nay hình thức nhận tiền mặt khi giao hàng vẫn là
phương thức thanh toán chủ yếu trong thương mại điện tử. Tuy nhiên sắp tới sẽ có
nhiều ngân hàng kết hợp với các nhà bán lẻ để tạo ra phương thức thuận tiện, linh hoạt
hơn cho người tiêu dùng khi thanh toán.
Xu hướng cuối cùng là cải tiến mô hình kinh doanh. Bà Hương Quỳnh cho biết,
hiện nay hầu hết doanh nghiệp thương mại điện tử vẫn dùng cách thức thu hút người
tiêu dùng thông qua các chương trình khuyến mãi nhưng thực tế nhu cầu của người
tiêu dùng trong thương mại điện tử khá đơn giản.
Họ chỉ muốn thông tin chính xác khi mua hàng online, muốn được hoàn tiền khi
sản phẩm không đúng yêu cầu, muốn được đổi hàng trong ngày khi sản phẩm không
như ý, được gửi email thông báo khi hết hàng. Phương thức giao nhận hàng, thời gian
giao hàng cũng là những vấn đề mà các doanh nghiệp thương mại điện tử cần chú
trọng cải tiến và hoàn thiện. Trong đó, địa điểm nhận hàng thuận lợi, giao hàng miễn
phí những đơn hàng cố định, giao hàng miễn phí những ngày nhất định, cho đơn hàng
cả năm là những tiêu chí được khách hàng online đánh giá cao.
Những nhu cầu đơn giản như vậy, theo bà Quỳnh vẫn chưa được các doanh nghiệp
thương mại điện tử đáp ứng đầy đủ [5].
4.6. Năm năm tới, quy mô thị trường có thể đạt 10 tỷ USD
Tại Diễn đàn Toàn cảnh Thương mại điện tử Việt Nam (VOBF) 2017 diễn ra
mới đây, bà Đặng Thủy Hà - Trưởng đại diện công ty nghiên cứu thị trường Nielsen
Hà Nội cho biết thị trường thương mại điện tử Việt Nam năm 2016 đã đạt tới mốc 5 tỷ
USD. Theo bà Đặng Thủy Hà, 45% dân số Việt Nam hiện nay đã tiếp cận với Internet.
Đáng chú ý là tỷ lệ dân số tiếp cận Internet tại các thành phố lớn như Hà Nội và TP.
Hồ Chí Minh còn cao hơn rất nhiều. Điều này tạo điều kiện phát triển cho ngành
13
thương mại điện tử tại Việt Nam. Hiện tốc độ tăng trưởng lĩnh vực thương mại điện tử
của Việt Nam là khoảng 35%.
Báo cáo từ Nielsen dẫn kết quả khảo sát năm 2015 cho thấy mỗi người sử dụng
Internet tại Việt Nam bỏ ra số tiền trung bình lên tới 160 USD/năm cho thương mại
điện tử. Nhờ vậy, tốc độ tăng trưởng thị trường hàng năm của thương mại điện tử Việt
Nam đã đạt tới 22%, tỷ lệ tiếp cận thương mại điện tử lên tới 28%.
Ngoài ra, Việt Nam có dân số đông, tỷ lệ sử dụng Internet và smartphone cao là
những điều kiện thuận lợi cho ngành thương mại điện tử phát triển. Tỷ lệ sử dụng
smartphone tại Việt Nam đạt trên 70%, thậm chí ở các vùng nông thôn cũng đã đạt tới
trên 50%.
Theo báo cáo của Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM), tính đến
năm 2016, đã có tới 32% doanh nghiệp thiết lập quan hệ kinh doanh với các đối tác
nước ngoài thông qua kênh trực tuyến. Trong khi đó, 11% doanh nghiệp chọn tham gia
các sàn thương mại điện tử và hoạt động website.
Với sự tăng trưởng mạnh mẽ của ngành thương mại điện tử tại Việt Nam hiện
nay, ông Trần Trọng Tuyến - Tổng thư ký Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam cho
rằng tốc độ tăng trưởng còn tăng mạnh, có thể lên tới 30 - 50%/năm. Theo ông Trần
Trọng Tuyến, quy mô thị trường thương mại điện tử Việt Nam có thể đạt 10 tỷ USD
trong 5 năm tới.
PHẦN II. CÁC HÌNH THỨC THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1. Thƣơng mại điện tử và những lợi ích
TMĐT là bước đi mới mẻ nhất cho nền kinh tế nói chung và cho các ngành nghề
kinh doanh nói riêng. Với các thiết lập đơn giản trên nền tảng internet chúng ta đã có
thể dễ dàng có được 1 cửa hàng trực tuyến với đầy đủ lợi ích trong tầm tay. Từ các
doanh nghiệp lớn cho tới các cửa hàng nhỏ cũng luôn tìm cách phát triển với TMĐT.
Lợi ích của TMĐT có thể xem xét ở ba nhóm đối tượng chính.
1.1. Với doanh nghiệp
(1) Mở rộng thị trường: Với chi phí đầu tư nhỏ hơn nhiều so với thương mại truyền
thống, các công ty có thể mở rộng thị trường, tìm kiếm, tiếp cận người cung cấp,
14
khách hàng và đối tác trên khắp thế giới. Việc mở rộng mạng lưới nhà cung cấp, khách
hàng cũng cho phép các tổ chức có thể mua với giá thấp hơn và bán được nhiêu sản
phẩm hơn.
(2) Giảm chi phí sản xuất: Giảm chi phí giấy tờ, giảm chi phí chia xẻ thông tin, chi
phí in ấn, gửi văn bản truyền thống.
(3) Cải thiện hệ thống phân phối: Giảm lượng hàng lưu kho và độ trễ trong phân
phối hàng. Hệ thống cửa hàng giới thiệu sản phẩm được thay thế hoặc hỗ trợ bởi các
showroom trên mạng, ví dụ ngành sản xuất ô tô (Ví dụ như Ford Motor) tiết kiệm
được chi phí hàng tỷ USD từ giảm chi phí lưu kho.
(4) Vượt giới hạn về thời gian: Việc tự động hóa các giao dịch thông qua Web và
Internet giúp hoạt động kinh doanh được thực hiện 24/7/365 mà không mất thêm nhiều
chi phí biến đổi.
(5) Sản xuất hàng theo yêu cầu: Còn được biết đến dưới tên gọi “Chiến lược kéo”,
lôi kéo khách hàng đến với doanh nghiệp bằng khả năng đáp ứng mọi nhu cầu của
khách hàng. Một ví dụ thành công điển hình là Dell Computer Corp.
(6) Mô hình kinh doanh mới: Các mô hình kinh doanh mới với những lợi thế và giá
trị mới cho khách hàng. Mô hình của Amazon. com, mua hàng theo nhóm hay đấu giá
nông sản qua mạng đến các sàn giao dịch B2B là điển hình của những thành công này.
(7) Tăng tốc độ tung sản phẩm ra thị trường: Với lợi thế về thông tin và khả năng
phối hợp giữa các doanh nghiệp làm tăng hiệu quả sản xuất và giảm thời gian tung sản
phẩm ra thị trường.
(8) Giảm chi phí thông tin liên lạc.
(9) Giảm chi phí mua sắm: Thông qua giảm các chi phí quản lý hành chính (80%);
giảm giá mua hàng (5-15%)
(10) Củng cố quan hệ khách hàng: Thông qua việc giao tiếp thuận tiện qua mạng,
quan hệ với trung gian và khách hàng được củng cố dễ dàng hơn. Đồng thời việc cá
biệt hóa sản phẩm và dịch vụ cũng góp phần thắt chặt quan hệ với khách hàng và củng
cố lòng trung thành.
(11) Thông tin cập nhật: Mọi thông tin trên web như sản phẩm, dịch vụ, giá cả...
đều có thể được cập nhật nhanh chóng và kịp thời.
(12) Chi phí đăng ký kinh doanh: Một số nước và khu vực khuyến khích bằng cách
giảm hoặc không thu phí đăng ký kinh doanh qua mạng. Thực tế, việc thu nếu triển
khai cũng gặp rất nhiều khó khăn do đặc thù của Internet.
(13) Các lợi ích khác: Nâng cao uy tín, hình ảnh doanh nghiệp; cải thiện chất lượng
dịch vụ khách hàng; đối tác kinh doanh mới; đơn giản hóa và chuẩn hóa các quy trình
giao dịch; tăng năng suất, giảm chi phí giấy tờ; tăng khả năng tiếp cận thông tin và
giảm chi phí vận chuyển; tăng sự linh hoạt trong giao dịch và hoạt động kinh doanh.
1.2. Với người tiêu dùng (1) Người tiêu dùng có nhiều lựa chọn về sản phẩm, dịch vụ hơn
(2) Vượt giới hạn về không gian và thời gian: Thương mại điện tử cho phép khách
hàng mua sắm mọi nơi, mọi lúc đối với các cửa hàng trên khắp thế giới
(3) Nhiều lựa chọn về sản phẩm và dịch vụ: Thương mại điện tử cho phép người
mua có nhiều lựa chọn hơn vì tiếp cận được nhiều nhà cung cấp hơn
(4) Giá thấp hơn: Do thông tin thuận tiện, dễ dàng và phong phú hơn nên khách
hàng có thể so sánh giá cả giữa các nhà cung cấp thuận tiện hơn và từ đó tìm được
mức giá phù hợp nhất
15
(5) Giao hàng nhanh hơn với các hàng hóa số hóa được: Đối với các sản phẩm số
hóa được như phim, nhạc, sách, phần mềm.... việc giao hàng được thực hiện dễ dàng
thông qua Internet
(6) Thông tin phong phú, thuận tiện và chất lượng cao hơn: Khách hàng có thể dễ
dàng tìm được thông tin nhanh chóng và dễ dàng thông qua các công cụ tìm kiếm
(search engines); đồng thời các thông tin đa phương tiện (âm thanh, hình ảnh)
(7) Đấu giá: Mô hình đấu giá trực tuyến ra đời cho phép mọi người đều có thể tham
gia mua và bán trên các sàn đấu giá và đồng thời có thể tìm, sưu tầm những món hàng
mình quan tâm tại mọi nơi trên thế giới.
(8) Cộng đồng thương mại điện tử: Môi trường kinh doanh TMĐT cho phép mọi
người tham gia có thể phối hợp, chia xẻ thông tin và kinh nghiệm hiệu quả và nhanh
chóng.
(9) “Đáp ứng mọi nhu cầu”: Khả năng tự động hóa cho phép chấp nhận các đơn
hàng khác nhau từ mọi khách hàng
(10) Thuế: Trong giai đoạn đầu của TMĐT, nhiều nước khuyến khích bằng cách
miến thuế đối với các giao dịch trên mạng
1.3. Với xã hội (1) Hoạt động trực tuyến: Thương mại điện tử tạo ra môi trường để làm việc, mua
sắm, giao dịch... từ xa nên giảm việc đi lại, ô nhiễm, tai nạn
(2) Nâng cao mức sống: Nhiều hàng hóa, nhiều nhà cung cấp tạo áp lực giảm giá
do đó khả năng mua sắm của khách hàng cao hơn, nâng cao mức sống của mọi người
(3) Lợi ích cho các nước nghèo: Những nước nghèo có thể tiếp cận với các sản
phẩm, dịch vụ từ các nước phát triển hơn thông qua Internet và TMĐT. Đồng thời
cũng có thể học tập được kinh nghiệm, kỹ năng... được đào tạo qua mạng.
(4) Dịch vụ công được cung cấp thuận tiện hơn: Các dịch vụ công cộng như y tế,
giáo dục, các dịch vụ công của chính phủ... được thực hiện qua mạng với chi phí thấp
hơn, thuận tiện hơn. Cấp các loại giấy phép qua mạng, tư vấn y tế.... là các ví dụ thành
công điển hình [2].
2. Các mô hình hoạt động thực tế
TMĐT ngày nay liên quan đến tất cả mọi thứ từ đặt hàng nội dung “kỹ thuật số”
cho đến tiêu dùng trực tuyến tức thời, để đặt hàng và dịch vụ thông thường, các dịch
vụ “meta” đều tạo điều kiện thuận lợi cho các dạng khác của TMĐT. Ở cấp độ tổ chức,
các tập đoàn lớn và các tổ chức tài chính sử dụng Internet để trao đổi dữ liệu tài chính
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh trong nước và quốc tế. Tính toàn vẹn dữ
liệu và tính an ninh là các vấn đề rất nóng gây bức xúc trong TMĐT.
Hiện nay có nhiều tranh cãi về các hình thức tham gia cũng như cách phân chia
các hình thức này trong TMĐT. Nếu phân chia theo đối tượng tham gia thì có 3 đối
tượng chính bao gồm: Chính phủ (G - Goverment), DN (B - Business) và Khách hàng
(C - Customer hay Consumer). Các dạng hình thức chính của TMĐT bao gồm: DN với
DN (B2B); DN với Khách hàng (B2C); DN với Nhân viên (B2E); DN với Chính phủ
(B2G); Chính phủ với DN (G2B); Chính phủ với Chính phủ (G2G); Chính phủ với
Công dân (G2C); Khách hàng với Khách hàng (C2C); Khách hàng với DN (C2B);
online-to-offline (O2O); Thương mại di động (mobile commerce hay viết tắt là m-
commerce).
3. Quy định pháp luật của Việt Nam về thƣơng mại điện tử
3.1. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về TMĐT Năm 2005, Quốc hội thông qua ba luật có tính chất đặt nền tảng pháp lý cho
TMĐT, đó là Luật Thương mại, Bộ luật Dân sự và Luật Giao dịch điện tử. Bên cạnh
16
đó, hoạt động TMĐT và việc giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực TMĐT còn chịu
sự điều chỉnh của một số luật như; Luật Công nghệ thông tin năm 2006; Luật Viễn
thông năm 2009; Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); Luật Bảo vệ
người tiêu dùng năm 2010; Luật Quảng cáo năm 2012; Luật Đầu tư 2014; Luật Doanh
nghiệp năm 2014.
Để hướng dẫn, quản lý hoạt động giao dịch và các hoạt động liên quan đến
TMĐT, Chính phủ đã ban hành:
- Nghị định 57/2006/NĐ-CP ngày 09/6/2006 về thương mại điện tử;
- Nghị định 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 về thương mại điện tử (thay thế
Nghị định 57/2006/NĐ-CP);
- Nghị định 26/2007/NĐ-CP ngày 15/02/2007 quy định chi tiết thi hành Luật
Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số;
- Nghị định số 106/2011/NĐ-CP ngày 23/11/2011 sửa đổi, bổ sung Nghị định
số 26/2007/NĐ-CP về chữ ký và dịch vụ chứng thực chữ ký;
- Nghị định số 170/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày 15/02/2007 quy định chi tiết thi hành Luật
Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số và Nghị định số
106/2011/NĐ-CP ngày 23/11/2011 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
26/2007/NĐ-CP ngày 15/02/2007;
- Nghị định 27/2007/NĐ-CP ngày 23/02/2007 về giao dịch điện tử trong hoạt
động tài chính; Nghị định 35/2007/NĐ-CP ngày 08/03/2007 về giao dịch điện tử trong
hoạt động Ngân hàng;
- Nghị định số 90/2008/NĐ-CP ngày 13/8/2008 về chống thư rác;
- Nghị định 77/2012/NĐ-CP ngày 05/10/2012 sửa đổi bổ sung Nghị định số
90/2008/NĐ-CP về Chống thư rác;
- Nghị định 25/2011/NĐ-CP ngày 06/04/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Viễn thông;
- Nghị định 43/2011/NĐ-CP ngày 13/06/2011 quy định về việc cung cấp thông
tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử
của cơ quan nhà nước;
- Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 về Thanh toán không dùng
tiền mặt; Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ về Quản lý,
cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng;
- Nghị định số 154/2013/NĐ-CP ngày 08/11/2013 quy định về khu công nghệ
thông tin tập trung;
- Nghị định số 181/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Quảng cáo.
Về xử lý vi phạm trong lĩnh vực TMĐT có các Nghị định sau:
- Nghị định số 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao du lịch và quảng cáo;
- Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô
tuyến điện;
- Nghị định số 25/2014/NĐ-CP ngày 07/4/2014 quy định về phòng, chống tội
phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao.
- Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buốn bán hàng giả, hàng cấm và bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng;
17
- Nghị định số 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015, sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buốn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng.
Về Thông tư hướng dẫn thi hành, có các văn bản sau:
- Thông tư số 78/2008/TT-BTC ngày 15/9/2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn
thi hành một số nội dung của Nghị định số 27/2007/NĐ-CP về giao dịch điện tử trong
hoạt động tài chính;
- Thông tư số 12/2008/TT-BTTTT ngày 30/12/2008 của Bộ Thông tin và
Truyền thông hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 90/2008/NĐ-CP
của Chính phủ về chống thư rác;
- Thông tư 03/2009/TT-BTC ngày 2/03/2009 của Bộ Tài chính quy định về mã
số quản lý đối với nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo bằng thư điện tử, tin nhắn, nhà
cung cấp dịch vụ tin nhắn qua mạng Internet, hướng dẫn thi hành Nghị định số
90/2008/NĐ-CP;
- Thông tư số 50/2009/TT-BTC ngày 16/03/2009 của Bộ Tài chính về việc
hướng dẫn giao dịch điện tử trên thị trường chứng khoán;
- Thông tư 26/2009/TT-BTTTT ngày 31/07/2009 của Bộ Thông tin và Truyền
thông quy định về cung cấp thông tin và bảo đảm khả năng truy cập thuận tiện đối với
trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước;
- Thông tư số 37/2009/TT-BTTTT ngày 22/7/2010 của Bộ Thông tin và Truyền
thông quy định về hồ sơ và thủ tục liên quan đến cấp phép, đăng ký, công nhận các tổ
chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số;
- Thông tư số 17/2010/TT-BKH ngày 22/07/2010 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
quy định chi tiết thí điểm đấu thầu qua mạng;
- Thông tư số 153/2010/TT-BTC ngày 28/9/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn
thi hành Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ quy định về hóa
đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
- Thông tư số 23/2010/TT-NHNN ngày 9/11/2010 của Thống đốc Ngân hàng
nhà nước quy định về việc quản lý, vận hành và sử dụng Hệ thống thanh toán điện tử
liên ngân hàng;
- Thông tư số 180/2010/TT-BTC ngày 9/11/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn
giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế;
- Thông tư số 25/2010/TT-BTTTT ngày 15/11/2010 của Bộ Thông tin và
Truyền thông quy định việc thu thập, sử dụng, chia sẻ, đảm bảo an toàn và bảo vệ
thông tin cá nhân trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan
nhà nước;
- Thông tư số 209/2010/TT-BTC ngày 20/12/2010 của Bộ Tài chính quy định
giao dịch điện tử trong hoạt động nghiệp vụ kho bạc nhà nước;
- Thông tư số 32/2011/TT-BTC ngày 14/3/2011, của Bộ Tài chính hướng dẫn
về khởi tạo, phát hành và sử dụng hóa đơn điện tử bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
- Thông tư liên tịch số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTTTT-VKSNDTC-
TANDTC ngày 10/9/2012 của Bộ Công an – Bộ Quốc phòng – Bộ Tư pháp - Bộ
Thông tin và Truyền thông - Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin và truyền thông;
- Thông tư số 47/2014/TT-BCT ngày 05/12/2014 của Bộ Công thương quy định
về quản lý website thương mại điện tử;
18
- Thông tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 11/12/2014, của Thống đốc Ngân hàng
nhà nước về dịch vụ trung gian thanh toán.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về TMĐT hiện nay tương đối đầy đủ,
nhưng văn bản có liên quan chặt chẽ nhất chính là Nghị định 52/2013/NĐ-CP.
3.2.Các nguyên tắc hoạt động trong thương mại điện tử
Theo quy định tại Nghị định 52/2013/NĐ-CP, TMĐT hoạt động theo bốn
nguyên tắc chính:
Một là, nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong giao dịch TMĐT
Các chủ thể tham gia hoạt động TMĐT có quyền tự do thỏa thuận không trái
với quy định của pháp luật để xác lập quyền và nghĩa vụ của từng bên trong giao dịch.
Thỏa thuận này là căn cứ để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình giao
dịch.
Hai là,nguyên tắc xác định phạm vi hoạt động kinh doanh trong TMĐT
Nếu thương nhân, tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ và xúc tiến thương mại trên website TMĐT không nêu cụ thể giới hạn địa lý
của những hoạt động này, thì các hoạt động kinh doanh đó được coi là tiến hành trên
phạm vi cả nước.
Ba là, nguyên tắc xác định nghĩa vụ về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
hoạt động TMĐT
Người sở hữu website TMĐT bán hàng và người bán trên website cung cấp
dịch vụ thương mại điện tử phải tuân thủ các quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng khi cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng; Khách hàng trên
website cung cấp dịch vụ TMĐT là người tiêu dùng dịch vụ TMĐT và là người tiêu
dùng hàng hóa, dịch vụ do người bán trên website này cung cấp; Trường hợp người
bán hàng trực tiếp đăng thông tin về hàng hóa, dịch vụ của mình trên website TMĐT
thì thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ TMĐT và thương nhân, tổ chức cung cấp
hạ tầng không phải là bên thứ ba cung cấp thông tin theo quy định của Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng.
Bốn là, nguyên tắc kinh doanh các hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh hoặc
hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện thông qua TMĐT
Các chủ thể ứng dụng TMĐTđể kinh doanh hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh
doanh hoặc hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện phải tuân thủ các quy định pháp
luật liên quan đến việc kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đó.
19
PHẦN III. CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI
VỚI THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Nhân loại đang bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, được xây dựng
trên cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 3, đó là cuộc cách mạng kỹ thuật số được
xuất hiện từ giữa thế kỷ trước, là sự hợp nhất các công nghệ làm mờ đi ranh giới giữa
các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số và sinh học.
1. Khái niệm về Cách mạng công nghiệp lần thứ 4
Theo GS. Klaus Schwab, Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Industry 4.0 (tiếng
Đức là Industrie 4.0) hay CMCN 4.0, là một thuật ngữ gồm một loạt các công nghệ tự
động hóa hiện đại, trao đổi dữ liệu và chế tạo. CMCN 4.0 được định nghĩa là “một
cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị”đi cùng
với các hệ thống vật lý trong không gian ảo, internet kết nối vạn vật (IoT) và internet
của các dịch vụ (IoS).
Bản chất của CMCN 4.0 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các
công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh
những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh
học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy...
Cuộc CMCN 4.0 là xu hướng hiện tại của tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong
công nghệ sản xuất. Nó bao gồm các hệ thống mạng vật lý, mạng Internet kết nối vạn
vật và điện toán đám mây. Công nghiệp 4.0 tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra các
“nhà máy thông minh” hay “nhà máy số”. Trong các nhà máy thông minh này, các hệ
thống vật lý không gian ảo sẽ giám sát các quá trình vật lý, tạo ra một bản sao ảo của
thế giới vật lý. Với IoT, các hệ thống vật lý không gian ảo này tương tác với nhau và
với con người theo thời gian thực, và thông qua IoS, người dùng sẽ được tham gia vào
chuỗi giá trị thông qua việc sử dụng các dịch vụ này…
Việc áp dụng rộng rãi những tiến bộ của công nghệ thông tin và truyền thông ICT,
như IoT, điện toán đám mây, công nghệ thực tế - ảo... vào hoạt động sản xuất công
nghiệp làm mờ đi ranh giới giữa thế giới thực và thế giới ảo, được gọi là hệ thống sản
xuất thực - ảo/điều khiển - vật lý CPPS (cyber-physical production system). Đây là
nền tảng cho việc xây dựng các nhà máy thông minh, nhà máy số ngày nay. CPPS là
20
mạng lưới giao tiếp trực tuyến giữa các máy móc với nhau, được tổ chức như mạng xã
hội.
Trong nhà máy số, các thiết bị máy móc thông minh giao tiếp với nhau bằng hệ
thống mạng và liên tục chia sẻ thông tin về lượng hàng hiện tại, về sự cố hoặc lỗi, về
những thay đổi trong đơn đặt hàng hoặc mức độ nhu cầu. Quá trình sản xuất và thời
hạn sản xuất được phối hợp với mục tiêu tăng hiệu suất và tối ưu hóa thời gian sản
xuất, công suất và chất lượng sản phẩm trong các khâu phát triển, sản xuất, tiếp thị và
thu mua. Các cảm biến, chấp hành và điều khiển cho phép các máy móc liên kết đến
nhà máy, các hệ thống mạng khác và giao tiếp với con người. Các mạng thông minh
này là nền tảng của các nhà máy thông minh, nhà máy số ngày nay.
Đối với nhà máy số, ngoài hạ tầng mạng máy móc thông minh còn có sự ghép nối
với hạ tầng các mạng thông minh khác như: mạng thiết bị di động thông minh, mạng
lưới điện thông minh, mạng logicstic thông minh, mạng ngôi nhà thông minh hay
mạng tòa nhà thông minh, và liên kết đến cả mạng thương mại điện tử, mạng xã hội.
Tất cả các mạng này là xu thế của Công nghiệp 4.0, dựa trên những phát triển vượt trội
của công nghệ thông tin – truyền thông và khoa học máy tính: IoT, IoS, Internet kết
nối dữ liệu, internet kết nối người dân.
2. Các động lực chính cho CMCN 4.0
Những động lực chính của cuộc cách mạng công nghiệp mới này là sự thay đổi
trong kỳ vọng của người dùng (sản phẩm theo yêu cầu và giao hàng theo thời gian
Internet), cùng với sự hội tụ của các công nghệ mới như IoT, robot cộng tác (cùng làm
với người), in ấn 3D và điện toán đám mây, cùng sự xuất hiện các mô hình kinh doanh
mới.
Thế giới đang chứng kiến hàng loạt những đột phá khoa học và tiến bộ công nghệ,
đây là những xu hướng và động lực dẫn dắt CMCN 4.0. Vô số tổ chức đã sử dụng các
công nghệ khác nhau sẽ thúc đẩy CMCN 4.0. Những đột phá khoa học và công nghệ
mới dường như là vô hạn, diễn ra trên rất nhiều mặt khác nhau và ở nhiều nơi khác
nhau. Các công nghệ quan trọng cần xem xét được dựa trên nghiên cứu do Diễn đàn
Kinh tế Thế giới thực hiện và các công việc của một số hội đồng chương trình nghị sự
toàn cầu.
Tất cả những phát triển mới và các công nghệ mới đều có đặc điểm chung: chúng
tận dụng sức mạnh lan tỏa của số hóa và công nghệ thông tin (CNTT). Các xu thế lớn
của công nghệ có thể được chia thành 3 nhóm: vật lý/hữu hình, kỹ thuật số và sinh
học. Cả ba đều liên quan chặt chẽ với nhau và với các công nghệ khác để đem lại lợi
ích cho nhau dựa vào những khám phá và tiến bộ của từng nhóm.
(1) Vật lý/hữu hình: Bốn đại diện chính của xu hướng lớn về phát triển công nghệ
dễ nhận thấy nhất là:
- Xe tự lái: Những xe ô tô này xử lý một lượng lớn dữ liệu cảm biến từ các radar,
máy ảnh, máy đo khoảng cách bằng siêu âm, GPS và bản đồ được gắn trên xe để điều
hướng các tuyến đường đi qua các tình huống giao thông phức tạp và thay đổi nhanh
chóng hơn mà không cần bất kỳ sự tham gia nào của con người.
- Công nghệ in 3D: Hay được gọi là chế tạo cộng, in 3D bao gồm việc tạo ra một
đối tượng vật lý bằng cách in theo các lớp từ một bản vẽ hay một mô hình 3D có
trước. Công nghệ này khác hoàn toàn so với chế tạo trừ, lấy đi các vật liệu thừa từ phôi
ban đầu cho đến khi thu được hình dạng mong muốn. Ngược lại, công nghệ in 3D bắt
đầu với vật liệu rời và sau đó tạo ra một sản phẩm ở dạng ba chiều từ mẫu kỹ thuật số.
- Khoa học robot cao cấp: Siêu tự động hóa cộng với trí tuệ nhân tạo (AI) khiến
việc tự động hóa phát triển mạnh hơn, thậm chí với những kỹ năng trước đây chỉ có
21
con người sở hữu. Siêu tự động hóa cực cao có thể cho phép sự tham gia của robot và
các cỗ máy có trí thông minh nhân tạo phân tích kết quả, đưa ra các quyết định phức
tạp và ứng dụng những kết luận vào hoạt động sản xuất.
- Vật liệu mới: Với thuộc tính mà mà chỉ cách đây vài năm vẫn còn được coi là
viễn tưởng, những vật liệu mới đang được đưa ra thị trường. về tổng thể, chúng nhẹ
hơn, bền hơn, có thể tái chế và dễ thích ứng.
(2) Kỹ thuật số:
Từ CMCN 4.0, sự hội tụ giữa ứng dụng vật lý và ứng dụng kỹ thuật số là sự xuất
hiện IoT. Mô tả đơn giản nhất, có thể coi IoT là mối quan hệ giữa vạn vật (các sản
phẩm, dịch vụ, địa điểm,...) và con người thông qua các công nghệ kết nối và các nền
tảng khác nhau. Theo các chuyên gia, IoT có thể tạo ra một cuộc cách mạng công
nghiệp mới, khiến cả nền kinh tế thế giới và đời sống nhân loại phải chuyển mình theo.
Không giống như các cuộc cách mạng trước - thường diễn ra theo xu hướng phát
minh mới làm mờ đi phát minh cũ, IoT được tin là sẽ tạo cơ hội cho tất cả các ngành
nghề đều được hưởng lợi. IoT gia tăng cũng có nghĩa là việc truyền tải dữ liệu và giao
tiếp qua internet tăng lên. Chính vì thế mà tất cả các công ty, ngành nghề đều có thể sử
dụng các dữ liệu đó để phân tích và quyết định chiến lược cạnh tranh giành lấy thành
công cho mình trong tương lai.
Theo Công ty nghiên cứu Rand Europe (Anh), đến năm 2020, IoT sẽ đem lại doanh
thu tiềm năng khổng lồ cho các ngành trên thế giới vào khoảng từ 1,4 nghìn tỷ - 14,4
nghìn tỷ USD - tương đương với mức GDP của cả Liên minh châu Âu. Không những
thế, một báo cáo mới nhất của hãng phân tích kinh tế Business Insider Intelligence còn
dự báo, đến năm 2020 nhiều ngành kinh tế cơ bản sẽ tăng cường đầu tư cho hệ sinh
thái IoT với tổng số tiền đầu tư cho các giải pháp IoT ước chừng 6 nghìn tỷ USD.
Trong đó, các nhà sản xuất công nghiệp chế tạo sẽ tăng 35% đầu tư cho việc sử dụng
các cảm biến thông minh.
Ngành giao thông sẽ có hơn 220 triệu xe hơi được kết nối. Ngành công nghiệp
quốc phòng sẽ chi 8,7 tỷ USD cho các phương tiện không người lái và sẽ có 126 nghìn
robot quân sự được xuất xưởng. Sản xuất nông nghiệp sẽ cài đặt 75 triệu thiết bị IoT,
chủ yếu là các thiết bị cảm biến được đặt ở trong đất để theo dõi nồng độ axít, nhiệt độ
và các chỉ số khác để giúp nông dân tăng năng suất mùa vụ. Ngoài ra, còn nhiều lĩnh
vực khác cũng tăng cường đầu tư hệ sinh thái IoT như lĩnh vực bán lẻ, dịch vụ vận tải,
ngân hàng, y tế... Nói chung, trong vài năm nữa, IoT sẽ bao trùm hầu khắp các ngành
nghề trong ba khu vực chính: Chính phủ, DN và người tiêu dùng, với ước tính có 24 tỷ
thiết bị được kết nối Internet và tham gia vào hệ sinh thái IoT.
(3) Sinh học
Với sức mạnh của máy tính, các nhà khoa học không còn phải dùng phương pháp
thử, sai và thử lại, thay vào đó họ thử nghiệm cách thức mà các biến dị gen gây ra các
bệnh lý đặc thù.Bước tiếp theo sẽ là sinh học tổng hợp. Công nghệ này sẽ giúp chúng
ta có khả năng tùy biến cơ thể bằng cách sửa lại ADN. Đặt những vấn đề đạo đức qua
một bên, sinh học tổng hợp sẽ phát triển hơn nữa, những tiến bộ này sẽ không chỉ tác
động sâu và ngay tức thì về y học mà còn về nông nghiệp và sản xuất nhiên liệu sinh
học.
3. Cơ hội và thách thức đối với thƣơng mại điện tử
3.1. Sức lan toả của cuộc cách mạng I4.0 đến TMĐT
22
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) được xây dựng dựa trên cuộc
cách mạng số, đặc trưng
bởi Internet ngày càng
phổ biến và di động, bởi
các cảm biến nhỏ và
mạnh mẽ hơn với giá
thành rẻ hơn, bởi trí tuệ
nhân tạo và học máy
(machine learning). Các
công nghệ số với phần
cứng máy tính, phần mềm
và hệ thống mạng đang
trở nên ngày càng phức
tạp hơn, được tích hợp
nhiều hơn và vì vậy đang
làm biến đổi xã hội và nền kinh tế toàn cầu. Cùng với xu hướng CMCN 4.0, kinh tế số
là yếu tố quan trọng tác động ảnh hưởng lớn đến đời sống, xã hội và cơ cấu của nền
kinh tế. Thương mại dần được toàn cầu hóa; công nghệ cao và các mô hình kinh doanh
mới ngày càng phát triển. Thị trường TMĐT vì thế cũng được mở rộng, mô hình
TMĐT ngày càng đổi mới, các chuỗi cung ứng truyền thống với sự hỗ trợ của sức
mạnh lan tỏa của số hóa và công nghệ thông tin trở thành chuỗi cung ứng thông minh,
đem lại hiệu quả cho nền kinh tế số nói chung cũng như TMĐT nói riêng.
Kinh tế chia sẻ (còn được gọi là sharing economy hoặc tiêu dùng cộng tác) là mô hình
tiêu biểu của nền kinh tế số, được coi là hoạt động tái thiết kinh tế tận dụng lợi thế sử
dụng nguồn tài nguyên của cá nhân (bao gồm cả tài sản vô hình như kỹ năng, thời
gian...) được giới thiệu, hay chia sẻ cho các cá nhân khác có thể cùng sử dụng thông
qua nền tảng phù hợp trên Internet. Ví dụ điển hình của mô hình kinh tế chia sẻ có thể
kể đến như: dịch vụ “Homestay”, cung cấp dịch vụ lưu trú sử dụng nhà ở; dịch vụ ngồi
chung xe di chuyển tới điểm đích đến bằng xe cá nhân của Uber; dịch vụ sử dụng vật
thuộc sở hữu cá nhân; hay dịch vụ cung cấp kỹ năng chuyên nghiệp của cá nhân trong
thời gian rảnh, dịch vụ sử dụng không gian tại bãi đỗ xe trống...
23
Cho dù là người tiêu dùng hay doanh nghiệp, thì khách hàng đang ngày càng
trở thành trung tâm của nền kinh tế số, tất cả đều nhằm làm thế nào cải thiện cách thức
phục vụ khách hàng, trong đó chú trọng vào trải nghiệm của khách hàng. Hơn nữa, các
sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đều có thể được tăng cường với công nghệ số hoá để
làm tăng giá trị của chúng. Nhờ vào sự phát triển của công nghệ, các sản phẩm và dịch
vụ được tạo ra dựa trên phân tích và tổng hợp dữ liệu về nhu cầu người tiêu dùng đòi
hỏi phải có sự đồng bộ liên kết và trao đổi dữ liệu. Sự xuất hiện của các nền tảng toàn
cầu, trong một thế giới phẳng và các mô hình kinh doanh mới sẽ dẫn tới hình thức tổ
chức và văn hoá phát triển của các doanh nghiệp cũng sẽ phải được xem xét lại.
Theo nhận định của OECD năm 2015, tiềm năng thực chất của nền kinh tế số
hiện nay vẫn chưa được thể hiện rõ rệt. Theo thống kê của eMarketer – Công ty
Nghiên cứu thị trường của Hoa Kỳ (tháng 8/2016), doanh thu thương mại điện tử bán
lẻ (TMĐT B2C) toàn cầu năm 2016 ước tính đạt 1.915 tỷ USD với mức tăng trưởng là
23.7%. Năm 2016, Bộ Thương mại Hoa Kỳ công bố tổng doanh thu bán lẻ trực tuyến
của quốc gia này tính đến hết quý 3 đạt 291,7 tỷ USD. Theo số liệu của Tập đoàn tư
vấn nghiên cứu các vấn đề Internet của Trung Quốc iResearch công bố vào tháng
12/2016, đến hết quý 3/2016, doanh thu bán lẻ nước này đạt 3,2 nghìn tỷ Nhân dân tệ
(khoảng 460,5 tỷ USD). Ước tính doanh thu này sẽ đạt 4.700 Nhân dân tệ (khoảng
676,3 tỷ USD) trong năm 2016. Về thị trường TMĐT bán lẻ tại Việt Nam, kết quả
khảo sát của Cục TMĐT và CNTT năm 2016 cho thấy, giá trị mua hàng trực tuyến của
một người đạt 170 USD, doanh số TMĐT B2C đạt khoảng 5 tỷ USD, tăng 23% so với
năm trước đó, chiếm khoảng 3% tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu
dùng cả nước. Tỷ trọng của TMĐT trong tổng doanh số thị trường bán lẻ của Việt
Nam khoảng 2,8% đang là con số khá khiêm tốn so với mức trung bình của cả khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương với 12,1%.
Tại Việt Nam, theo khảo sát năm 2016 với hơn 3.000 doanh nghiệp, hai phần
mềm được doanh nghiệp sử dụng phổ biến là phần mềm kế toán, tài chính (91%) và
quản lý nhân sự (59%). Một số phần mềm khác được doanh nghiệp sử dụng là phần
mềm quan hệ khách hàng (32%), phần mềm quản lý hệ thống cung ứng (28%), phần
mềm quản lý doanh nghiệp (17%). Tỷ lệ doanh nghiệp có trang bị máy tính để
bàn/máy tính xách tay chiếm 99% trong tổng số hơn 3.000 doanh nghiệp tham gia
24
khảo sát. 61% doanh nghiệp trang bị các loại thiết bị di động như điện thoại thông
minh, máy tính bảng để phục vụ công việc, số liệu này tăng 11% so với năm 2015. Tỷ
lệ doanh nghiệp sử dụng phần mềm quản lý nhân sự chiếm 59%, tăng 10% so với năm
trước đó.Tỷ lệ doanh nghiệp có sử dụng chữ ký điện tử trong giao dịch với đối tác tăng
tương đối cao, chiếm 61% trong tổng số doanh nghiệp tham gia khảo sát (năm 2015 tỷ
lệ này là 48%). Một thống kê khác của Thời báo kinh tế Sài Gòn Online, trong 5 năm
(2011-2015), tại Việt Nam, có 11.738 công trình khoa học được công bố quốc tế, song
có chưa tới 20% tổng số doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp có trình độ
công nghệ tiên tiến, mà chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).
3.2. Cần chuẩn bị gì cho TMĐT thời 4.0?
Khi nhìn thấy được xu hướng phát triển của TMĐT thì chúng ta sẽ có câu trả
lời. Như đã phân tích ở trên, CCMCN 4.0 sẽ giúp cho doanh nghiệp phục vụ tốt và
đúng nhu cầu của khách hàng của họ hơn. Tuy nhiên, nó lại sẽ là thách thức rất lớn
cho các nhân sự hiện tại, bởi vì tính tự động và hiệu quả rất cao. Chính vì vậy, xu
hướng tất yếu là doanh nghiệp sẽ cần những người nắm rõ quy trình công nghiệp, có
nghiệp vụ cao nhưng lại phải thành thạo trong việc quản lý hệ thống Thương Mại Điện
Tử.
Ngoài ra, nhân viên phát triển website TMĐT sẽ được săn đón. Bởi vì TMĐT
vận hành trên nền website nơi mà khách hàng có thể xem hàng, chọn hàng và đặt hàng.
Doanh nghiệp rất cần đội ngũ này để tạo ra được một hệ thống TMĐT như mình đã
phân tích. Điều chắc chắn, đội ngũ phát triển website hệ thống TMĐT này phải có
năng lực, nắm vững nền tảng để có thể can thiệp trực tiếp vào hệ thống.
Hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp đang tìm đội ngũ Web Developer (nhà phát
triển website) có kiến thức nền tảng thật tốt để có thể tham gia các dự án lớn cũng như
có thể phân tích sâu sắc vấn đề, đưa ra giải pháp thật sự hiệu quả. Nếu bạn muốn theo
sự nghiệp Web Developer, thì bạn nên tìm cho mình một lộ trình nền tảng bài bản, có
hệ thống để bắt đầu theo đuổi sự nghiệp này [7].
25
KẾT LUẬN
TMĐT Việt Nam mặc dù đã bắt nhịp xu hướng TMĐT mới của thế giới, phục
vụ hiệu quả cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo thói quen mua sắm hiện đại của
người tiêu dùng trên môi trường mạng. Tuy nhiên, các hạ tầng cho kinh tế số, như hạ
tầng thanh toán điện tử, hạ tầng phân phối điện tử, hạ tầng nhân lực TMĐT và CNTT,
hạ tầng an toàn an ninh thông tin còn bộc lộ nhiều hạn chế. Một bộ phận lớn các doanh
nghiệp Việt Nam, bao gồm cả doanh nghiệp TMĐT còn chưa ý thức được hoặc chưa
quan tâm thích đáng đến sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ hiện đại. Do đó, để
tiếp cận với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế số trong cuộc CMCN 4.0, cần sự
đầu tư lớn về nguồn vốn, công nghệ và nhân lực.
Những chính sách và đầu tư cụ thể trong lĩnh vực giáo dục công nghệ, kiến tạo
trong thời gian sớm nhất một xã hội với lực lượng lao động chất lượng cao, vừa tận
dụng được tối đa sự phát triển của công nghệ thông tin, vừa bảo đảm hoà nhập xã hội.
Đó là điều Việt Nam phải làm ngay, bởi thế giới không bao giờ dừng lại để chờ đợi.
Trung tâm Phân tích thông tin
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Đình Luận, Tổng quan về thương mại điện tử ở Việt Nam, Tạp chí tài
chính, số tháng 8/2015.
[2] Lợi ích của thương mại điện tử, Doanh nhân Sài Gòn, tháng 8/2017.
[3] Tổng quan thực trạng tình hình thương mại điện tử ở Việt Nam năm 2017, tháng
9/2017, Webico
[4] Thương mại điện tử Việt Nam: Tiềm năng và thách thức, Diễn đàn doanh nghiệp,
tháng 2/2017.
[5] Thương mại điện tử dành cho các doanh nghiệp,
[6] Cách mạng công nghiệp 4.0: cơ hội và thách thức, trang tin điện tử, tháng 6/2017.
[7] Thương mại điện tử 4.0; https://www.cione.vn/chuyen-nghe/thuong-mai-dien-tu-
thoi-4-0.html, tháng 6/2017