nghean.edu.vnnghean.edu.vn/.../95__SaNG_KIeN_KN_PHa_2020_31992009c5.docx · Web view2020/10/12  ·...

79
M ỤC LỤC PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ………………………………………………………..1 I. Lí do chọn đề tài………………………………………………………………1 II. Mục đích nghiên cứu………………………………………………………....2 III. Đối tượng và khách thể nghiên cứu………………………………………….2 IV. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………….2 V. Tính mới của đề tài…………………………………………………………...2 PHẦN II: NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc vận dụng PPĐV vào dạy học Lịch sử…....4 1.Cơ sở lí luận…………………………………………………………………..4 1.1. Phương pháp dạy học tích cực……………………………………………..4 1.2. Phương pháp đóng vai và vai trò của phương pháp đóng vai trong dạy học………………………………………………………………………………5 2. Cơ sở thực tiễn……………………………………………………………….7 2.1. Thực trạng nhận thức của giáo viên về sử dụng PPĐV vào dạy học………..7 2.2. Mức độ sử dụng PPĐV của giáo viên trong dạy học Lịch sử………………7 2.3. Mức độ hứng thú của HS đối với các phương pháp dạy học của GV...........8 II. Tổ chức đóng vai trong dạy học lịch sử ở trường THPT để tạo hứng thú học tập cho học sinh………………………………………………………………….9 1. Nguyên tắc sử dụng PPĐV trong dạy học Lịch sử……………………………9 2. Cách thức sử dụng các dạng đóng vai trong dạy học Lịch sử……………….10 2.1. Đóng vai nhân vật Lịch sử…………………………………………………11 2.2. Đóng vai nhân vật giả định………………………………………………...16 2.3. Đóng vai tình huống……………………………………………………….23 III. Thực nghiệm sư phạm……………………………………………………...29 1. Mục đích thực nghiệm……………………………………………………….29 2. Nhiệm vụ thực nghiệm………………………………………………………29

Transcript of nghean.edu.vnnghean.edu.vn/.../95__SaNG_KIeN_KN_PHa_2020_31992009c5.docx · Web view2020/10/12  ·...

MỤC LỤC

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ………………………………………………………..1

I. Lí do chọn đề tài………………………………………………………………1

II. Mục đích nghiên cứu………………………………………………………....2

III. Đối tượng và khách thể nghiên cứu………………………………………….2

IV. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………….2

V. Tính mới của đề tài…………………………………………………………...2

PHẦN II: NỘI DUNG

I. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc vận dụng PPĐV vào dạy học Lịch sử…....4

1.Cơ sở lí luận…………………………………………………………………..4

1.1. Phương pháp dạy học tích cực……………………………………………..4

1.2. Phương pháp đóng vai và vai trò của phương pháp đóng vai trong dạy học………………………………………………………………………………5

2. Cơ sở thực tiễn……………………………………………………………….7

2.1. Thực trạng nhận thức của giáo viên về sử dụng PPĐV vào dạy học………..7

2.2. Mức độ sử dụng PPĐV của giáo viên trong dạy học Lịch sử………………7

2.3. Mức độ hứng thú của HS đối với các phương pháp dạy học của GV...........8

II. Tổ chức đóng vai trong dạy học lịch sử ở trường THPT để tạo hứng thú học tập cho học sinh………………………………………………………………….9

1. Nguyên tắc sử dụng PPĐV trong dạy học Lịch sử……………………………9

2. Cách thức sử dụng các dạng đóng vai trong dạy học Lịch sử……………….10

2.1. Đóng vai nhân vật Lịch sử…………………………………………………11

2.2. Đóng vai nhân vật giả định………………………………………………...16

2.3. Đóng vai tình huống……………………………………………………….23

III. Thực nghiệm sư phạm……………………………………………………...29

1. Mục đích thực nghiệm……………………………………………………….29

2. Nhiệm vụ thực nghiệm………………………………………………………29

3. Tiến hành thực nghiệm………………………………………………………29

PHẦN III: KẾT LUẬN………………………………………………………...34

I. Những đóng góp của đề tài…………………………………………………..34

1. Tính mới của đề tài……………………………………………………….34

2. Tính khoa học…………………………………………………………….34

3. Tính hiệu quả……………………………………………………………..34

II. Một số khó khăn khi áp dụng đề tài…………………………………………34

III. Kiến nghị, đề xuất…………………………………………………………..35

1. Với các cấp quản lí giáo dục………………………………………………..36

2. Với giáo viên……………………………………………………………… 36

3. Với học sinh………………………………………………………………..36

TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….37

PHỤ LỤC……………………………………………………………………..38

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

Chữ cái viết tắt/Ký hiệu

Cụm từ đầy đủ

PPĐV

Phương pháp đóng vai

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

THPT

Trung học phổ thông

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

I. Lí do chọn đề tài

Hiện nay chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế. Nhiều nước trên thế giới đã có sự thay đổi mạnh mẽ theo hướng chuyển từ dạy học truyền thụ kiến thức sang dạy học phát triển năng lực người học. Ở nước ta Đại hội XII của Đảng xác định: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục- đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học; hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; đổi mới căn bản công tác quản lý Giáo dục- Đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục-đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng; phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, đáp ứng yêu cầu đổi mới; đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội, nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển Giáo dục - Đào tạo.

Đổi mới phương pháp dạy học cần phải đáp ứng mục tiêu giáo dục mới đó là không chỉ nhằm trang bị kiến thức mà còn chú trọng đến vận dụng kiến thức kĩ năng vào cuộc sống, đặc biệt quan tâm đến phát triển năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề phù hợp với hoàn cảnh. Điều đó có nghĩa dạy học không chỉ đơn thuần truyền đạt, cung cấp thông tin mà chủ yếu rèn luyện khả năng tìm kiếm và chiếm lĩnh tri thức.

Trong những năm gần đây vấn đề dạy, học lịch sử đang thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Trong kì thi THPT QG 2019, lịch sử là môn có điểm thấp nhất với 4,3 điểm, hơn 70 % số học sinh dự thi dưới điểm trung bình. Điều này không có gì lạ vì trong nhiều năm qua điểm thi môn lịch sử luôn thấp nhất trong các môn thi (2016: 4,32, 2017: 4,6, 2018: 3,79). Trước thực trạng đó, chúng tôi - những giáo viên lịch sử luôn trăn trở về việc dạy học của mình: làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học môn lịch sử? Làm sao các em học sinh yêu thích lịch sử và học lịch sử ngày càng có hiệu quả hơn?

Muốn nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, trước hết người giáo viên phải tạo được hứng thú, khơi gợi niềm đam mê học tập cho học sinh một cách tự giác. Trong thực tế dạy học lịch sử ở trường chúng tôi trong những năm gần đây các giáo viên đã tích cực đổi mới PP dạy học, trong đó vận dụng có hiệu quả PPĐV. Do đó các giờ học lịch sử trở nên sinh động, học sinh hứng thú hơn trong tiếp nhận kiến thức.

Phương pháp đóng vai là một trong những phương pháp dạy học tích cực nhằm phát triển năng lực học sinh, phát huy cao độ tính tự giác, độc lập và sáng tạo của người học. Phương pháp đóng vai làm phong phú thêm phương pháp dạy học của giáo viên, góp phần tích cực vào xu thế đổi mới phương pháp lịch sử ở trường phổ thông hiện nay. Phương pháp này giúp học sinh nhận thức sâu sắc hơn nội dung lịch sử đang học, phát triển trí tuệ và giáo dục các phẩm chất nhân cách cho người học, có tác dụng to lớn trong tạo hứng thú và động cơ học tập cho học sinh, giáo dục kĩ năng sống và hướng nghiệp cho học sinh...phương pháp này đáp ứng được mục tiêu giáo dục mà UNESSCO đã đề ra: học để biết, học để làm, học để chung sống và học để tự khẳng định mình.

Nhằm nâng cao hiệu quả bài học lịch sử và tạo hứng thú học tập cho học sinh, tôi áp dụng sáng kiến “ Sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học Lịch sử tạo hứng thú cho học sinh ở trường THPT”, với mong muốn chia sẻ những kinh nghiệm hiểu biết của mình tới đồng nghiệp, áp dụng vào thực tiễn dạy học để nâng cao chất lượng bộ môn

II. Mục đích nghiên cứu

- Vận dụng PPĐV nhằm nâng cao hiệu quả bài học

- Tạo sự hứng thú và yêu thích môn học của học sinh

III. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

- Phương pháp đóng vai trong dạy học lịch sử áp dụng cho nhiều bài học Lịch sử THPT

- Khách thể nghiên cứu: quá trình dạy học môn lịch sử ở trường THPT

- Đối tượng: học sinh THPT

IV.Phương pháp nghiên cứu

- Nghiên cứu lí luận: nghiên cứu tài liệu, các công trình nghiên cứu về PPĐV, phương pháp dạy học lịch sử, sách giáo khoa phổ thông, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới giáo dục và đào tạo…

- Tiến hành thực nghiệm sư phạm: khảo sát ý kiến của giáo viên, của học sinh về PPĐV. Dự giờ đồng nghiệp, trao đổi ý kiến với giáo viên, xây dựng hệ thống các câu hỏi, phiếu điều tra để điều tra thực trạng.

- Phương pháp thống kê toán học: sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lí kết quả thực nghiệm để rút ra kết luận, chứng minh tính khả thi của đề tài

V. Tính mới của đề tài

Sử dụng PPĐV trong dạy học đã được tiến hành và áp dụng ở nhiều môn học như: GDCD, Ngữ văn, Địa lí…Trong những năm trở lại đây, do yêu cầu đổi mới dạy học, kiểm tra đánh giá môn Lịch sử, nhiều giáo viên đã quan tâm, trăn trở hơn đến các tiết dạy, áp dụng các phương pháp dạy học tích cực để phát triển năng lực học sinh. Những biện pháp đó được đúc rút trong một số sáng kiến kinh nghiệm hay các đề tài nghiên cứu như:

· Vận dụng phương pháp dạy học dự án và dạy học lịch sử địa phương theo hướng trải nghiệm sáng tạo – Tác giả Lê Thị Phương THPT Phan Bội Châu năm 2019

· Tạo hứng thú học tập bằng trò chơi trong dạy học Lịch sử 10 cơ bản -2018 Tác giả Hồ Thị Nhàn- THPT Quỳnh Lưu 3

· Vận dụng PPĐV trong dạy học Lịch sử ở trường THPT nhằm phát triển toàn diện học sinh – Tác giả Nguyễn Văn Ninh- Tạp chí giáo dục số ra ngày 15/9/2016

· Trên diễn đàn giáo dục online của Sở GD TP HCM đã có một số trường THPT đưa hình thức Cosplay History vào môn học và đã nhận được sự phản hồi tích cực từ học sinh.

Tuy nhiên trong những sáng kiến đó, mặc dù các phương pháp tích cực đã được sử dụng để nâng cao hiệu quả bài học nhưng chưa có sáng kiến nào đề cập đến sử dụng phương pháp đóng vai. Còn những nghiên cứu ở các diễn đàn có nêu sử dụng phương pháp đóng vai tạo hứng thú học tập nhưng chưa nêu quy trình áp dụng trong các giờ học. Vì vậy đề tài “Sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học lịch sử tạo hứng thú cho học sinh ở trường THPT” đã hệ thống quy trình thiết kế và sử dụng các dạng đóng vai trong dạy học Lịch sử có thể áp dụng để nâng cao hiệu quả bài học Lịch sử ở trường phổ thông.

PHẦN II: NỘI DUNG

I. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc vận dụng PPĐV vào dạy học Lịch sử

1. Cơ sở lí luận

1.1. Phương pháp dạy học tích cực

PPDH tích cực là khái niệm để chỉ những phương pháp giáo dục hướng tới việc hoạt động hóa, chủ động hóa nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào tính chủ động sáng tạo của người học chứ không phải tập trung vào phát huy tính chủ động của người dạy.

Khi áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực, giờ giảng của mỗi giáo viên trở nên sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa. Học sinh là trung tâm nhưng vai trò, uy tín của GV được đề cao hơn. Bên cạnh đó, khả năng chuyên môn của GV sẽ tăng lên nhờ áp lực của phương pháp, bởi nội dung kiến thức của từng giờ giảng phải được cập nhật liên tục để đáp ứng các câu hỏi của HS trong thời đại thông tin rộng mở.

Dạy học là quá trình trao đổi kiến thức giữa GV và HS. Nếu GV chỉ thuyết trình, có gì nói nấy thì những gì GV giảng chỉ là kiến thức một chiều. Có thể HS đã biết những kiến thức ấy, hay đó là những nội dung không hữu ích đối với cuộc sống hiện tại và tương lai của các em. GV phải luôn đổi mới bài giảng cũng như phong cách đứng lớp. Mối quan hệ GV- HS sẽ trở nên gần gũi, tốt đẹp qua việc giải quyết các tình huống liên quan đến nội dung bài học và cuộc sống của HS.

Khi GV dạy học bằng phương pháp dạy học tích cực, HS thấy được học chứ không bị học. HS được chia sẻ những kiến thức và kinh nghiệm của mình đồng thời với việc bổ sung những kiến thức, kinh nghiệm không chỉ từ người thầy mà còn từ chính các bạn trong lớp. HS hạnh phúc khi  được học, được sáng tạo, được thể hiện, được làm. Dạy bằng phương pháp giảng dạy tích cực chính là tìm mọi cách giúp HS được chủ động trong việc học, cho các em được làm việc, được khám phá tiềm năng của chính mình. GV cần giúp các em có được sự tự tin, có trách nhiệm với bản thân để từ đó chia sẻ trách nhiệm với cộng đồng.

Charles Handy, nhà triết lý kinh doanh nổi tiếng người Anh, đã nói: “Để làm cho tương lai trở thành hiện thực, chúng ta cần phải tự tin và tin tưởng vào giá trị của chính mình. Đó là điều mà các trường học phải dạy cho mọi người”. Và muốn HS có được sự tự tin và tin tưởng vào giá trị của chính mình, các em cần được học theo phương pháp chủ động. Chỉ khi các em được tự khám phá kiến thức, tự học, tự làm và tự bổ sung cho nhau thì kiến thức mới trở thành tri thức của người học, chuyển thành hành động, thành thói quen hàng ngày của họ.

Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân với đối tượng, thể hiện sự chú ý đến đối tượng, khao khát đi sâu nhận thức đối tượng, có sự hứng thú thỏa mãn đối tượng. Trong dạy học lịch sử “ hứng thú học tập là sự say mê, tự giác, tích cực của cá nhân đối với nội dung lịch sử cụ thể. Tạo hứng thú học tập lịch sử là giáo viên sử dụng phương pháp dạy học phù hợp giúp học sinh thích thú, tìm hiểu và tự bổ sung kiến thức.

Môn lịch sử ở trường phổ thông nhằm giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, góp phần hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy, hành động và thái độ ứng xử đúng đắn trong cuộc sống xã hội. Vì vậy phương pháp dạy học môn Lịch sử rất phong phú, đa dạng, bao gồm các phương pháp hiện đại (thảo luận nhóm, đóng vai...) và các phương pháp truyền thống (trực quan, kể chuyện...). Để việc dạy học có hiệu quả, người giáo viên phải biết lựa chọn các phương pháp phù hợp với bài học, với đối tượng học sinh nhằm tạo cho học sinh hứng thú học tập.

Theo luật giáo dục Việt Nam, "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tư duy, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tư tưởng tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh".

Tâm lí học sinh khi học Lịch sử là phải học thuộc, phải ghi nhớ, phải học những số liệu nhàm chán, phải học những diễn biến dài ngoằng…Vì vậy trong quá trình dạy học tôi đã áp dụng PPĐV để tạo sự hứng thú đối với HS trong quá trình học tập.

1.2. Phương pháp đóng vai và vai trò của PPĐV trong dạy học lịch sử.

1.2.1. Khái niệm phương pháp đóng vai.

Phương pháp đóng vai là một trong những PPDH tích cực, nhằm phát huy cao độ tính tự giác, độc lập, sáng tạo của người học. Trong quá trình nghiên cứu tôi gặp rất nhiều các định nghĩa khác nhau về phương pháp đóng vai, tuy nhiên trong đề tài này tôi sử dụng định nghĩa của tài liệu Bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình sách giáo khoa lớp 10 năm 2006, đó là “ Đóng vai là phương pháp tổ chức cho người học thực hành “ làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định”. Với định nghĩa này các tác giả tiếp cận phương pháp đóng vai theo hướng nhấn mạnh vai trò của người học qua việc thể hiện quan điểm thái độ, hành vi của mình trước tình huống được giao. Giáo viên nêu các tình huống mở để người học sáng tạo kịch bản, lời thoại phù hợp với nội dung, kĩ năng của mình.

1.2.2. Vai trò của PPĐV trong dạy học Lịch sử.

PPĐV có những vai trò quan trọng trong quá trình đổi mới PPDH Lịch sử ở trường phổ thông, tạo hứng thú học tập cho học sinh, nâng cao chất lượng dạy học.

PPĐV làm phong phú thêm phương pháp dạy học cho giáo viên, góp phần tích cực vào xu thế đổi mới PPDH lịch sử ở trường phổ thông. PPDH là một trong những yếu tố quan trọng và ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. Một PPDH khoa học, phù hợp sẽ tạo điều kiện để GV và HS phát huy hết khả năng của mình trong việc truyền đạt lĩnh hội kiến thức và phát triển tư duy, làm thay đổi vai trò của GV, đồng thời tạo nên sự hứng thú, say mê và sáng tạo của HS. Trong khi đó hiện nay ở trường phổ thông, phương pháp thuyết trình vẫn chiếm ưu thế, vì vậy điều này đã làm mất đi một hình thái của tư duy đó là tư duy sáng tạo. Tư duy sáng tạo tập trung vào khám phá các ý tưởng, phát triển thành nhiều giải pháp, tìm ra những phương án trả lời đúng thay vì chỉ có một phương án.

PPĐV có khả năng kích thích tư duy sáng tạo của người học (sáng tạo trong giải quyết tình huống, sáng tạo trong xây dựng kịch bản, thể hiện hình tượng nhân vật…). Do vậy PPĐV có thể kết hợp với phương pháp thuyết trình để làm cho bài học sinh động, hạn chế nhược điểm và phát huy những ưu điểm của phương pháp dạy học truyền thống.

PPĐV giúp học sinh nhận thức sâu sắc hơn nội dung lịch sử đang học, phát triển trí tuệ và phẩm chất nhân cách cho HS. Ngoài việc cung cấp kiến thức sát với nội dung bài học, đóng vai giúp phát triển khả năng tư duy, sáng tạo của người học, kích thích người học đưa ra nhiều ý tưởng mới cho bài học. Phương pháp đóng vai giúp phát triển kĩ năng thực hành cho học sinh, gắn lí luận với thực tiễn, nhất là đóng vai tình huống. thông qua đó học sinh thể hiện kĩ năng và phương pháp ứng xử của mình, là cơ hội thể hiện thái độ và tính cách trước đám đông.

PPĐV có tác dụng to lớn trong tạo hứng thú và động cơ học tập cho học sinh. Với chủ trương đổi mới phương pháp dạy học là học sinh tích cực chủ động tìm kiếm kiến thức, vì vậy mục tiêu giáo dục sẽ thay đổi theo các bước: Thái độ, hứng thú - Kĩ năng - Tri thức. Hứng thú có vai trò quan trọng trong nâng cao tính tích cực, làm tăng hiệu quả nhận thức. Phương pháp đóng vai mang lại hứng thú học tập cho học sinh vì trong quá trình đóng vai, học sinh được trao đổi giao lưu với thầy cô, bạn bè, được thể hiện năng khiếu, thể hiện mình trước đám đông hòa mình vào không khí lớp học sôi nổi, thoải mái, thân thiện, hấp dẫn. Hứng thú là nguyên nhân hình thành động cơ học tập cho HS.

PPĐV có tác dụng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng giải quyết tình huống, kĩ năng thuyết trình. Đóng vai đòi hỏi HS phải chủ động trong quá trình học tập như một bên liên quan trong một kịch bản tưởng tượng hay thực, trong quá tringh tham gia sẽ giúp HS hình thành kĩ năng giao tiếp giữa cá nhân – cá nhân, cá nhân- tập thể, từ đó giúp HS biết cách giao tiếp, ửng xử với bạn bè cùng trang lứa và những người xung quanh. Thông qua đóng vai HS thể hiện nhận thức, thái độ trong tình huống cụ thể và phải có cách ứng xử phù hợp với tình huống đó. Qua các vai diễn, HS bộc lộ khả năng giao tiếp, tự giải quyết vấn đề, các tình huống trong cuộc sống…HS sẽ tự tin khi đứng trước đám đông và thấy mình cần cố gắng hơn nữa để vai diễn của mình nhận được sự khen ngợi từ mọi người…

PPĐV có tác dụng trong hướng nghiệp cho học sinh.Thông qua đóng vai không chỉ tạo không khí học tập sôi nổi, khơi dậy hứng thú học tập cho học sinh mà còn có khả năng hình thành niềm đam mê nghề nghiệp. Trong quá trình tìm tòi, sáng tạo, xây dựng kịch bản, hóa thân vào vai diễn như: nhà báo, nhà ngoại giao, hướng dẫn viên du lịch…Ví dụ khi dạy bài 9 Lịch sử 11: Em hãy đóng vai phóng viên của đài truyền hình Việt Nam thường trú tại đế quốc Nga đầu thế kỉ XX, cập nhật thông tin về tình hình nước Nga trước khi cách mạng tháng Mười bùng nổ. Hoặc đóng vai hướng dẫn viên du lịch giới thiệu khách tham quan về những thành tựu nghệ thuật kiến trúc điêu khắc của Việt Nam từ thế kỉ X –XV…

2. Cơ sở thực tiễn

2.1. Thực trạng nhận thức của giáo viên về sử dụng PPĐV vào dạy học.

Để có cơ sở thực tiễn cho việc ứng dụng PPĐV ở trường THPT đạt hiệu quả cao, tôi đã tiến hành điều tra về nhận thức, mức độ sử dụng của 12 giáo viên dạy lịch sử ở 3 trường THPT trên địa bàn ( PHỤ LỤC 1). Kết quả thu được như sau:

Mức độ nhận thức và lí do

Số giáo viên

Tỉ lệ %

A. Mức độ nhận thức

Rất cần thiết

Cần thiết

Không cần thiết

9

3

0

75

25

0

B. Các lí do

- Kích thích hứng thú học tập của học sinh

- Phát huy tính tích cực, độc lập sáng tạo của học sinh

- Đảm bảo kiến thức vững chắc

- Chuẩn bị công phu mất thời gian

- HS được thể hiện mình trước đám đông

12

12

9

7

12

100

100

75

58

100

Bảng 1: Kết quả khảo sát mức độ nhận thức của giáo viên về sử dụng PPĐV trong dạy học ở trường THPT

2.2. Mức độ sử dụng PPĐV của giáo viên trong dạy học Lịch sử.

Để điều tra thực trạng vận dụng PPĐV trong dạy học Lịch sử, tác giả đã tiến hành điều tra các PPDH được các GV sử dụng. Kết quả như sau:

TT

Các PPDH

Thường xuyên

Thỉnh thoảng

Không sử dụng

SL

%

SL

%

SL

%

1

Thuyết trình

12

100

0

0

0

0

2

Đóng vai

0

0

5

42

7

58

3

Vấn đáp

7

58

5

42

0

0

4

Trực quan

2

17

8

66

2

17

5

Nhóm

4

33

5

42

3

25

Bảng 2: Thực trạng sử dụng các PPDH của GV trong dạy học lịch sử ở trường THPT

2.3. Mức độ hứng thú của HS đối với các phương pháp dạy học của GV.

Để tìm hiểu về mức độ hứng thú của HS đối với các PPDH mà GV thường sử dụng tôi đã tiến hành điều tra 100 HS khối 10,11,12 của 3 trường THPT ở trên địa bàn kết quả thu được như sau:

TT

Các PP

Rất thích

Thích

Bình thường

Không thích

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

1

Thuyết trình

0

0

12

12

26

26

62

62

2

Đóng vai

85

85

15

15

0

0

0

0

3

Vấn đáp

5

5

12

12

27

27

56

56

4

Trực quan.

32

32

38

38

30

30

0

0

5

Nhóm

44

44

50

50

6

6

0

0

Bảng 3: Mức độ hứng thú của học sinh với các phương pháp mà giáo viên đã sử dụng

Qua số liệu điều tra trên tôi thấy:

- Về phía giáo viên: 100%(12/12) GV được khảo sát đều khẳng định sự cần thiết cả việc sử dụng PPĐV trong dạy học. Các GV đã có nhận thức đúng đắn về tác dụng của PPĐV: 100%(12/12) GV đều cho rằng PPĐV kích thích sự hứng thú trong học tập, phát huy tính tích cực, độc lập sáng tạo của HS, 75% (9/12) GV cho rằng phương pháp này đảm bảo kiến thức vững chắc. 100%(12/12) GV đều cho rằng nếu thực hiện đóng vai HS sẽ được thể hiện mình trước đám đông.

Tuy nhiên qua số liệu điều tra ở bảng 2: Các phương pháp dạy học được các GV sử dụng cho thấy: 100% GV trong dạy học sử dụng thường xuyên phương pháp thuyết trình, 33% sử dụng phương pháp hoạt động nhóm, 17% sử dụng phương pháp trực quan. Trong khi đó với PPĐV chỉ có 42%(5/12) GV được hỏi là thỉnh thoảng sử dụng trong quá trình dạy học, 58%( 7/12) GV không sử dụng, còn sử dụng thường xuyên không có GV nào. Điều này cho thấy giữa nhận thức, thái độ và hành động thực tế của GV còn có khoảng cách khá xa. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc cải tiến, đổi mới PPDH còn gặp nhiều khó khăn.

- Về phía học sinh: Qua điều tra tôi thấy hầu hết các em rất thích thú khi được đóng vai trong giờ học lịch sử. 85% HS rất thích và 15 % HS thích GV sử dụng PPĐV trong giờ học Lịch sử. Như vậy đây là một thuận lợi để giáo viên có thể áp dụng phương pháp này trong xu thể đổi mới PPDH hiện nay. Tuy nhiên trong quá trình dạy học giáo viên rất ít khi sử dụng PPĐV, nếu có thì cũng chỉ trong các tiết thao giảng hoặc sinh hoạt chuyên đề. Qua tìm hiểu tôi thấy nguyên nhân của thực trạng trên là do:

Các GV cho rằng PPĐV đòi hỏi đầu tư nhiều công sức, chuẩn bị mất thời gian. Không phải nội dung nào cũng sử dụng PPĐV một cách hiệu quả, giáo viên phải mất thời gian chuẩn bị giáo án và triển khai đóng vai trên lớp.

Năng lực, kĩ năng vận dụng PPĐV còn hạn chế, nhiều GV còn đang lúng túng chưa biết vận dụng PPĐV vào bài nào, tiến hành ra sao…đó là những nguyên nhân làm cho giáo viên chưa mạnh dạn sử dụng PPĐV trong dạy học.

Khả năng hợp tác của các HS cũng làm giảm hiệu quả sử dụng phương pháp này, các em chưa chủ động khi tham gia hoạt động nhóm.

Chương trình môn học còn nặng về cung cấp kiến thức, giáo viên không có thời gian để sân khấu hóa lớp học.

Thực tế đó cho thấy việc áp dụng PPĐV trong dạy học Lịch sử là hết sức cần thiết. GV và HS đều hứng thú với PPĐV song vẫn gặp những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện. Với tư cách một giáo viên Lịch sử, tôi cho rằng mình cần phải có trách nhiệm, với một phạm vi nhỏ hơn – đó là làm cho học sinh yêu thích môn Lịch sử. Để làm được điều đó, trước hết bản thân giáo viên phải thay đổi. Để môn Lịch sử không khô khan, tôi đưa các phương pháp dạy học tích cực vào giáo án; để trong mỗi giờ học Lịch sử, học sinh sẽ như đang sống trong thời khắc lịch sử đó. Thực tiễn đó là cơ sở để tôi triển khai và thực hiện đề tài trong quá trình dạy học.

II. Tổ chức đóng vai trong dạy học lịch sử ở trường THPT để tạo hứng thú học tập cho học sinh.

Để thiết kế giờ học theo hướng phát triển năng lực của học sinh, tiến trình giờ học được tổ chức theo các hoạt động: khởi động, hình thành kiến thức, luyện tập, vận dụng và tìm tòi sáng tạo. Tùy theo từng tiết học giáo viên có thể sử dụng PPĐV ở các các bước trên lớp hoặc chỉ tiến hành một số hoạt động nhất định như khởi động, hình thành kiến thức, luyện tập, tìm tòi sáng tạo. PPĐV nhằm hướng tới tạo hứng thú cho học sinh, phát huy năng lực sáng tạo, tích cực chủ động của người học. Để thực hiện PPĐV có hiệu quả GV cần chú ý các nguyên tắc.

1. Nguyên tắc sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học lịch sử.

· Đảm bảo khai thác kiến thức cơ bản, trọng tâm. Giáo viên khi lựa chọn nội dung có sử dụng phương pháp đóng vai thì bám sát chương trình, sách giáo khoa để đạt được mục tiêu dạy học. Mỗi bài cụ thể giáo viên cần cân nhắc lựa chọn nhân vật, tình huống để sử dụng phương pháp đóng vai.

· Đảm bảo tính khả thi.

· Khả thi về kịch bản: Kịch bản được xây dựng dựa vào mục tiêu, nội dung bài học, phải có kịch tính để gây sự hứng thú, gây sự chú ý, đồng thời kịch bản phải có tính giáo dục, bồi dưỡng cảm xúc, thẩm mĩ cho người học. Kịch bản phải tôn trọng sự thật lịch sử đối với kiểu đóng vai nhân vật lịch sử. Vì vậy giáo viên cần hỗ trợ học sinh tìm nguồn tham khảo chính thống, và giáo viên phải kiểm duyệt trước khi học sinh diễn trước lớp.

· Khả thi về mặt thời gian: Đối với bài dạy nội khóa có sử dụng phương pháp đóng vai thì thời gian đóng vai trò quan trọng. Với thời gian 45 phút, giáo viên cần cân đối giữa các hoạt động, chọn nội dung sử dụng phương pháp đóng vai phù hợp.

· Đảm bảo tính tích cực, chủ động. Hoạt động đóng vai phải phát huy được tinh thần làm việc tập thể, khả năng hợp tác, làm việc nhóm của học sinh. Qua hoạt động đóng vai HS phải làm việc nhóm, đòi hỏi sự tự giác và tích cực của tất cả các thành viên. Vì vậy trong quá trình dạy học GV phải luôn chú ý quan sát, nắm bắt tâm lí từng đối tượng HS để có biện pháp lôi kéo các em vào bài học một cách tự nhiên nhất. GV yêu cầu phải có biên bản làm việc nhóm, có phân công nhiệm vụ và đánh giá về tinh thần thái độ của từng thành viên. Việc làm này sẽ giúp GV nắm bắt được tình hình của HS từ đó đưa ra những biện pháp cụ thể với mỗi đối tượng HS đó.

· Đảm bảo nguyên tắc tự nguyện. Khi tự nguyện các em sẽ chủ động, tích cực, tự giác và sáng tạo trong khám phá tri thức.

Tuy nhiên, PPĐV không khuyến khích ở các khâu lên lớp, tất cả nội dung bài học, GV chỉ nên chọn nội dung phù hợp để đóng vai tránh nhàm chán. Trong quá trình lên lớp cần kết hợp nhiều phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực khác để tăng hiệu quả nội dung hoạt động dạy học. Tình huống đóng vai phù hợp với lứa tuổi, trình độ học sinh và hoàn cảnh lớp học, số lượng vai diễn khoảng từ 2 – 4 người, không nên quá nhiều. Tình huống không nên quá dài, cần khích lệ những học sinh nhút nhát cùng tham gia.

2. Cách thức sử dụng các dạng đóng vai trong dạy học Lịch sử

PPĐV có thể áp dụng qua các hoạt động ngoại khóa, hoặc trong kiểm tra đánh giá, tuy nhiên ở đề tài này tôi trình bày cách thức sử dụng trong bài dạy nội khóa. Qua nghiên cứu và thực nghiệm trong các tiết dạy nội khóa, dựa vào mục đích sử dụng của giáo viên, tôi chia ra các dạng đóng vai như sau: Đóng vai nhân vật lịch sử, đóng vai nhân vật giả định, đóng vai tình huống. Với các dạng đóng vai đó tôi sử dụng trong các hoạt động của một tiết học theo phát triển năng lực: Khởi động, hình thành kiến thức, củng cố, tìm tòi mở rộng…

2.1. Đóng vai nhân vật lịch sử

Theo từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông của giáo sư Phan Ngọc Liên chủ biên định nghĩa “Nhân vật Lịch sử là người có vai trò nhất định trong một sự kiện, một thời kì Lịch sử”. Nếu không có nhân vật Lịch sử thì các sự kiện trở nên nhàm chán, thiếu sinh động. Do đó khắc họa biểu tượng nhân vật bằng PPĐV trong dạy học có vai trò quan trọng trong tạo hứng thú học tập cho học sinh.

Đây là hình thức học sinh thể hiện tính cách, con người, hành động của nhân vật lịch sử cụ thể. Phương pháp này được áp dụng trong bài nghiên cứu kiến thức mới với mục tiêu là cụ thể hóa kiến thức bài học, tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử. Thông qua vai diễn của mình, học sinh phải khắc họa được hình tượng nhân vật (thần thái, tính cách)…Vì vậy việc “diễn” là phần khá quan trọng. Đóng vai thường do một học sinh độc diễn hoặc vài học sinh đảm nhận( đóng vai người dẫn chuyện, đóng vai nhân vật cụ thể…).

Các bước sử dụng phương pháp đóng vai nhân vật trong dạy học lịch sử

Bước 1: Giáo viên căn cứ vào nội dung, mục tiêu cụ thể của bài học, nêu ra nhiệm vụ chuẩn bị bài mới (lựa chọn nhân vật để tiến hành đóng vai)

Bước 2: GV chia nhóm và giao nhiệm vụ cụ thể GV đưa ra các tiêu chí (diễn xuất, đạo cụ, thời gian…)

Bước 3: Các nhóm thảo luận, xây dựng kịch bản, phân công vai diễn và thông qua kịch bản với giáo viên

Bước 4: Các nhóm được phân công lên đóng vai theo kịch bản đã xây dựng

Bước 5: Nhận xét, đánh giá

· Đại diện nhóm tự nhận xét đánh giá

· Các nhóm còn lại dựa vào các tiêu chí GV đưa ra để nhận xét, bổ sung đặt câu hỏi, phản biện tranh luận

· GV tổng kết đánhgiá

Việc xây dựng kịch bản và tập diễn do học sinh tiến hành trước khi đến lớp, tức là có sự chuẩn bị trước. Giáo viên là người chỉ dẫn, sửa kịch bản, tổng duyệt trước khi học sinh diễn trước tập thể lớp. Dựa vào nội dung bài học, GV quy định cụ thể thời gian đóng vai cho học sinh để không làm ảnh hưởng đến tiến trình bài học.

Để đóng vai nhân vật, HS sẽ được GV cung cấp thông tin về nhân vật sẽ đóng. Nguồn thông tin về nhân vật lịch sử có thể từ: kênh chữ, kênh hình trong sách giáo khoa, sách tham khảo, thông tin trên Internet, thông tin từ địa phương… Để có được ngoại hình và thần thái giống nhân vật thì đòi hỏi học sinh phải tìm hiểu kĩ về nhân vật đó.

Trong quá trình dạy học ở trường phổ thông, tôi chia đóng vai nhân vật lịch sử thành hai dạng: một tuyến nhân vật lịch sử tiêu biểu, có tầm ảnh hưởng lớn trong lịch sử, đây là kiểu nhân vật có những công lao, đóng góp tích cực cho xã hội, là tấm gương cho hậu thế noi theo như: Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Quang Trung –Nguyễn Huệ, Nguyễn Tất Thành, Võ Nguyên Giáp, Thiên Hoàng Minh Trị…và tuyến nhân vật lịch sử đang còn có những đánh giá nhiều chiều như: Dương Vân Nga, Phan Thanh Giản, Nguyễn Ánh… Tôi tiến hành sử dụng phương pháp đóng vai ở những nhân vật nhiều chiều ngoài mục đích tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử thì đóng vai nhân vật có ý kiến nhiều chiều còn phát triển năng lực sáng tạo trong thể hiện hình tượng nhân vật, mặt khác còn phát triển tư duy phản biện cho học sinh. Sau khi học sinh đóng vai, GV tổ chức cho học sinh tranh luận, nêu ý kiến của mình về nhân vật lịch sử đã đóng. Đây là biện pháp để học sinh tự mình khám phá những nhận thức đúng đắn về nhân vật lịch sử, góp phần kích thích niềm say mê, hứng thú đối với môn học.

GV sử dụng đóng vai nhân vật cho phần khởi động bài học

Ví dụ: Thiết kế hoạt động khởi động sử dụng PPĐV nhân vật lịch sử khi dạy Bài 19: Các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ thế kỉ X- XV ( Lịch sử 10 )

Hoạt động khởi động ( 5 phút)

Mục tiêu: nhằm tạo mâu thuẫn nhận thức giữa kiến thức đã biết và chưa biết có liên quan đến bài học, yêu cầu học sinh xác định nhiệm vụ học tập của bài và giáo viên dẫn dắt vào bài mới

Cách thức: Tổ chức đóng vai nhân vật Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi

Hoạt động của giáo viên

Hoạt động của học sinh

A. Chuẩn bị:

Giáo viên giao nhiệm vụ đóng vai cho các nhóm từ tiết học trước

- Nhiệm vụ:

· Mỗi đội chọn một nhân vật và nhóm cử đại diện đóng vai nhân vật đó.

· Trên cơ sở giáo viên cung cấp thông tin: nhân vật thể hiện câu nói “ Nam Quốc sơn hà nam đế cư”, “ Ta thường tới bữa quên ăn…”, “ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”…

· GV kiểm tra việc chuẩn bị của HS, duyệt kịch bản trước khi HS diễn trước lớp.

Thời gian trình bày 3 phút cho 3 nhân vật

- Yêu cầu: trang phục, thần thái nhân vật…

B. Tiến hành dạy trên lớp

- GV dẫn dắt vấn đề: các em hãy theo dõi phần trình bày của 3 nhóm:

- Sau khi học sinh trình bày xong vai diễn, giáo viên cho học sinh nhận xét các vai diễn và GV nhận xét hoạt động đóng vai: Kịch bản, diễn xuất, đúng/sai, vai diễn thể hiện tốt nhất.

Giáo viên phát vấn:

Thông qua phần đóng vai của các nhóm, em hãy cho biết tên các nhân vật lịch sử trong hoạt cảnh trên?

Những nhân vật đó gắn liền với những chiến thắng nào trong kháng chiến chống ngoại xâmcủa dân tộc?

- Giáo viên đưa thông tin phản hồi: Những nhân vật lịch sử trên gắn liền với các chiến thắng chống Tống, Mông Nguyên, Chống quân Minh của dân tộc. Qua sự thể hiện của các nhóm đã phần nào cho ta thấy nguyên nhân thắng lợi của các cuộc kháng chiến. Vậy các cuộc kháng chiến của nhân dân ta diễn ra như thế nào, chúng ta cùng tìm hiểu qua bài học hôm nay.

- Học sinh xung phong đóngvai và chuẩn bị vai diễn trên cơ sở tư liệu được giáo viên cung cấp, giới thiệu.

- Các học sinh khác quan sát và nhận xét vai diễn của bạn

- Học sinh trả lời

- Học sinh lắng nghe và liên hệ đến những kiến thức sẽ học trong bài mới

Như vậy việc học sinh lựa chọn nhân vật Lịch sử, hóa thân vào nhân vật ấy, học thuộc những lời thoại hoặc câu nói “kinh điển” của các nhân vật ấy thể hiện sự đầu tư, quan tâm của các em đối với môn học.

Giáo viên tổ chức đóng vai nhân vật lịch sử cho phần hình thành kiến thức mới.

Ví dụ: Khi dạy Bài 23: Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ tổ quốc cuối thế kỉ XVIII (Lịch sử 10) GV tổ chức cho cả lớp đóng vai nhân vật Quang Trung – Nguyễn Huệ, lớp được chia nhóm chuẩn bị cho từng trận đánh lớn: Đóng vai Nguyễn Huệ khi đánh trận Rạch Gầm – Xoài Mút, đóng vai Quang Trung – Nguyễn Huệ khi đại phá quân Thanh. Hoặc khi dạy về chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ, GV tổ chức cho HS đóng nhân vật Oa sinh tơn khi lãnh đạo nhân dân Bắc Mĩ chống lại thực dân Anh…Việc sử dụng PPĐV hợp lí giúp tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử, cho học sinh thấy được vai trò, công lao, ảnh hưởng của nhân vật đó đối với lịch sử.

Ví dụ 1: Sử dụng phương pháp đóng vai nhân vật lịch sử cho phần hình thành kiến thức mới Bài 23: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất ( 1914 -1918) ( Lịch sử 11)

Hoạt động tìm hiểu: Buổi đầu hoạt động của Nguyễn Tất Thành.

Mục tiêu: Nắm được nguyên nhân ra đi tìm đường cứu nước và buổi đầu hoạt động của Nguyễn Tất Thành từ năm 1911 -1917.

Phương pháp: Giáo viên tổ chức cho học sinh đóng vai Nguyễn Tất Thành, anh Tư Lê, người dẫn truyện (thời gian: 5 phút).

( sản phẩm kịch bản chuẩn bị của học sinh ở phần PHỤ LỤC 3.1)

Hoạt động của giáo viên

Hoạt động của học sinh

A. Chuẩn bị:

- Giáo viên giao nhiệm vụ đóng vai cho học sinh từ tiết học trước

- Nhiệm vụ

Các nhóm cử đại diện chọn nhân vật và tiến hành đóng theo nhiệm vụ phân công

· Các nhóm thảo luận và lên kịch bản dựa trên tư liệu giáo viên cung cấp, giới thiệu, học sinh tìm hiểu về hình dáng, phong thái của Bác qua phim tài liệu, sách báo.. ( HS tham khảo Sách kể chuyện Bác Hồ - NXB GD 2018)

· Giáo viên kiểm tra nội dung và phần trình bày của học sinh trước khi học sinh diễn trước lớp

· Thời gian trình bày 3 phút

B. Tiến hành dạy học trên lớp

- GV: Các em hãy theo dõi cuộc gặp gỡ giữa Nguyễn Tất Thành, Anh Tư Lê và trả lời câu hỏi

- Nguyên nhân Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước?

- Hướng đi của Nguyễn Tất Thành có gì khác với các vị tiền bối trước đó?

- Sau khi học sinh thể hiện xong vai diễn, học sinh khác nhận xét, sau đó GV nhận xét về phần trình bày của HS: kịch bản, diễn xuất, kiến thức đúng/ sai…, và bình chọn người diễn tốt nhất.

- Giáo viên đưa thông tin phản hồi sau khi học sinh trả lời:

Nguyên nhân Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước: Hoàn cảnh dân tộc, gia đình quê hương, cá nhân Nguyễn Tất Thành. Hướng đi là sang các nước Phương Tây (khác với Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh)

- Nội dung tiếp theo giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu về hành trình của Nguyễn Tất Thành từ 1911 -1917 bằng lược đồ…

- GV phát vấn: Những hoạt động đầu tiên của Nguyễn Tất Thành từ năm 1911 -1917 có ý nghĩa gì?

- Học sinh nhận nhiệm vụ được phân công, thảo luận và lên kịch bản chuẩn bị

- Học sinh thể hiện vai diễn kết hợp với trình chiếu Powpoint về tình hình đất nước đầu thế kỉ XX

- Học sinh trả lời câu hỏi

- Học sinh lắng nghe và ghi nhớ kiến thức

- Học sinh lên chỉ lược đồ về hành trình của Người.

Ví dụ 2: Khi dạy hoạt động tìm hiểu về “Cuộc kháng chiến chống Tống thời Tiền Lê” (Bài 19 – Lịch sử 10), GV tổ chức HS đóng vai hành động nhường ngôi của thái hậu Dương Vân Nga cho Lê Hoàn (sản phẩm kịch bản phần PHỤ LỤC 3.2 ). Sau đó GV tổ chức tranh luận về nhân vật Dương Vân Nga. Cụ thể:

GV xác định vấn đề tranh luận: Tranh luận về nhân vật Dương Vân Nga trong LS dân tộc.

Có hai luồng ý kiến trái ngược nhau về bà:

Ý kiến thứ nhất: Nhiều sử gia không đồng tình với hành động này của cả Lê Hoàn và Dương Vân Nga, cho rằng bà đã thông đồng với Lê Hoàn từ trước để cướp ngôi.

Ý kiến thứ hai: Bên cạnh đó có nhiều nhà nghiên cứu lại tỏ ra thông cảm cho hành động nhường ngôi cho Lê Hoàn cũng như việc 2 người trở thành vợ chồng.

Vậy chúng ta suy nghĩ thế nào trước hành động này của Dương Vân Nga?

Với vấn đề tranh luận nói trên, GV tổ chức HS làm việc theo nhóm trong thời gian khoảng 2 phút. Hết thời gian, GV tổ chức HS tranh luận. Bằng kiến thức của mình, HS đưa ra ý kiến, quan điểm đánh giá của mình. GV khuyến khích HS tăng cường đưa ra ý kiến thông qua các câu hỏi gợi mở.

Kết thúc tranh luận, GV tổng kết, chốt lại vấn đề bằng cách đưa ra những đánh giá khách quan và gợi cho HS những suy nghĩ sâu sắc hơn: Thái hậu Dương Vân Nga, một con người nổi tiếng về tài sắc, mạnh mẽ và quyết đoán. Dù LS có đánh giá bà như nào đi nữa thì hành động nhường ngôi cho Thập đạo tướng quan Lê Hoàn là một quyết định đúng đắn với vận mệnh dân tộc lúc bấy giờ.

Tuy nhiên, hành động của bà ở mỗi giai đoạn LS lại có cái nhìn khác nhau: trách cứ hoặc cảm thông. Song có thể nói, cho dù có đánh giá như nào đi nữa, thì vai trò của bà đối với LS dân tộc là không thể phủ nhận. Thân phận bà đi bên cạnh hai người đàn ông – hai hoàng đế. Ở vị trí nào bà cũng làm tròn vai trò của người vợ, bậc mẫu nghi thiên hạ, đóng góp không nhỏ vào sự thịnh trị của hai vương triều Đinh- Tiền Lê.

2.2. Đóng vai nhân vật giả định

Nếu đóng vai nhân vật lịch sử, học sinh đã có nguyên mẫu qua các tư liệu lịch sử… nhưng khi đóng vai nhân vật giả định học sinh sẽ tưởng tượng về nhân vật mình hóa thân qua vốn hiểu biết của mình trong cuộc sống như phóng viên, hướng dẫn viên du lịch, phát ngôn viên của Bộ ngoại giao, hoặc các nhà hoạt động chính trị…

Các bước thực hiện đóng vai nhân vật giả định.

Bước 1: GV dựa vào kiến thức nội dung bài học để lựa chọn việc áp dụng PPĐV hợp lí.

Bước 2: Giao nhiệm vụ đóng vai cho các nhóm về chuẩn bị, xây dựng kịch bản, phân công đóng vai.

Bước 3: Các nhóm thông qua kịch bản với GV và tiến hành tập diễn.

Bước 4: Các nhóm diễn trên lớp.

Bước 5: Nhận xét của HS, GV về: sự sáng tạo trong thể hiện nhân vật, đúng/ sai về nội dung, những thông tin cần bổ sung…

Như vậy xét về quy trình thì đóng vai nhân vật giả định cũng giống như đóng vai nhân vật lịch sử tuy nhiên nếu đóng vai nhân vật lịch sử có nguyên mẫu từ tư liệu Lịch sử thì dạng đóng vai này đòi hỏi HS phải tưởng tượng, phải có vốn kiến thức cuộc sống phong phú thì vai diễn mới sinh động và hấp dẫn. Dựa trên những thông tin, dữ liệu hỗ trợ mà giáo viên sẽ cung cấp, các em hóa thân vào nhân vật trong cuộc sống hiện tại nói về quá khứ để tìm hiểu, giới thiệu về quá khứ lịch sử. Hoặc học sinh đóng vai là phóng viên, hoặc phát ngôn của Bộ ngoại giao, hướng dẫn viên du lịch…để trình bày về những vấn đề lịch sử liên quan đến nội dung bài học.

Đối với dạng đóng vai này giáo viên có thể áp dụng cho phần khởi động bài học hoặc khai thác một mục của sách giáo khoa, hoặc hoạt động tìm tòi mở rộng. Với kiểu đóng vai nhân vật giả định sẽ giúp học sinh có những trải nghiệm thú vị. Học sinh thông qua vai diễn tự tưởng tượng, các em sẽ bộc lộ được khả năng tự nhận thức, khả năng giao tiếp, tự giải quyết vấn đề, được rèn luyện khả năng thực hành, điều chỉnh hành vi thái độ theo hướng tích cực trong cuộc sống.

Đây là trường hợp đóng vai mà nhóm chuyên môn chúng tôi thường áp dụng trong quá trình dạy học, qua thực tế dự giờ đồng nghiệp và thực hiện nghiên cứu bài học chúng tôi thấy cách tổ chức này nhận được sự phản hồi tích cực từ học sinh và tạo ra sự hứng thú trong quá trình học tập.

Ví dụ: Khi dạy bài 18 lịch sử 12, GV cho học sinh đóng vai như sau “ Hãy tưởng tượng mình là một lính Pháp chiến đấu ở chiến trường Đông Khê kể lại cuộc chiến đấu mặt trận Đông Khê trong chiến dịch Biên Giới Thu đông 1950”. Với cách này học sinh tự mình tưởng tượng, sáng tạo để làm cho nhân vật của mình thực sự sinh động. Qua việc đặt bản thân vào nhân vật để đóng vai sẽ kích thích học sinh suy nghĩ sâu sắc về nội dung bài học, thông qua vai diễn học sinh tự tưởng tượng các em thể hiện được nhận thức thái độ của mình trong tình huống cụ thể…

Hoặc khi dạy về các thành tựu văn hóa, GV yêu cầu HS đóng vai là hướng dẫn viên du lịch giới thiệu về một công trình kiến trúc, điêu khắc hay di tích lịch sử…và khi đó thầy, cô giáo và các bạn trong lớp học sẽ đóng vai là những du khách trong hành trình du lịch đó.

GV cũng có thể yêu cầu HS vào vai phát ngôn viên của Bộ ngoại giao Việt Nam để đưa ra lập trường, quan điểm của Việt Nam trong giải quyết tranh chấp liên quan đến Biển Đông (áp dụng khi dạy nội dung về chủ quyền Biển đảo của Việt Nam ở tiết tự chọn Lịch sử 12)

Ngoài ra GV tiến hành tổ chức các khai thác kiến thức bằng việc xây dựng các hội nghị giả định như: Hội nghị Ianta, hội nghị Vec xai, buổi họp báo của các nước đế quốc trước khi chiến tranh thế giới thứ nhất diễn ra, hoặc hình thức “ Dân hỏi bộ trưởng trả lời”…

Khi tổ chức tranh luận về một vấn đề lịch sử GV có thể sử dụng đóng vai trong hoạt động nhóm dưới hình thức là một phiên tòa lịch sử. Với cách này GV đưa ra tình huống gợi mở cho học sinh suy nghĩ, đánh giá vấn đề theo những chiều hướng khác nhau. HS sẽ đưa ra ý kiến để bảo vệ quan điểm của mình, đồng thời thuyết phục đối phương theo ý kiến đó bằng những lập luận lí lẽ, bằng chứng xác thực…Với phương pháp này sẽ phát triển tư duy phản biện cho học sinh.

Ví dụ khi dạy chủ đề Lịch sử Việt Nam từ 1858 -1884 GV có thể tổ chức thảo luận về trách nhiệm nhà Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay Pháp cuối thế kỉ XIX. Trong đó nhóm 1: nhóm theo quan điểm phê phán nhà Nguyễn, cho rằng nhà Nguyễn chịu trách nhiệm hoàn toàn khi nước ta rơi vào tay Pháp. Nhóm 2: Bênh vực triều Nguyễn, cho đó là yếu tố khách quan. Nhóm 3 đóng vai là hội đồng xét xử điều hành phiên tòa khi phiên tòa diễn ra. ..

Sử dụng đóng vai nhân vật giả định vào hoạt động khởi động bài học

Ví dụ 1: Thiết kế đóng vai sử dụng cho hoạt động khởi động Bài 12: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925(Lịch sử 12-Ban cơ bản).

Hoạt động khởi động (5 phút)

Tổ chức đóng vai các nhân vật ông Nghị Quế, bà Nghị Quế, chị Dậu trong đoạn trích “Chị Dậu bán con cho Nghị Quế”

Hoạt động của giáo viên

Hoạt động của học sinh

1. Chuẩn bị:

Giáo viên giao nhiệm vụ đóng vai các nhân vật ông Nghị Quế, bà Nghị Quế, chị Dậu trong đoạn trích “Chị Dậu bán con cho Nghị Quế” cho các nhóm học sinh chuẩn bị từ tiết học trước.

- Nhiệm vụ :

· Mỗi nhóm chọn 1 nhân vật và cử đại diện đóng vai nhân vật.

· GV yêu cầu các em diễn theo trích đoạn“Chị Dậu bán con cho Nghị Quế”

· Thời gian trình bày : 3 phút.

· Sau khi lựa chọn vai diễn các nhóm thống nhất nội dung để phối hợp cùng thực hiện nhiệm vụ.

2. Tiến hành trên lớp :

Sau khi học sinh trình bày xong vai diễn, GV cho HS nhận xét về phần diễn xuất của bạn, tuyên bố vai diễn xuất sắc nhất và phát vấn:

- Em hãy cho biết nhân vật Nghị Quế và chị Dậu đại diện cho những giai cấp nào trong xã hội Việt Nam thời thuộc địa?

- Qua phần diễn của các bạn em có nhận xét gì về đời sống của người dân lao động Việt Nam thời kì này?

3. Giáo viên đưa ra thông tin phản hồi và giới thiệu vào nội dung bài học:

Đoạn trích “Chị Dậu bán con”là một trong những phân cảnh xúc động trong bộ phim chị Dậu. Chị Dậu là một bộ phim nổi tiếng thuộc hàng những tác phẩm kinh điển của điện ảnh cách mạng Việt Nam XX. Phim được sản xuất năm 1980 bởi đạo diễn, Nghệ sĩ Nhân dân Phạm Văn Khoa dựa trên kịch bản là tiểu thuyết Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất Tố. Phim Chị Dậu cùng với phim Làng Vũ Đại ngày ấy (1982) đã đạt được thành công lớn về nhiều mặt khi khắc họa cuộc sống nông thôn cũng như nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội phong kiến nửa thuộc địa của Việt Nam. Đặc biệt là sự bần cùng của người nông dân Việt Nam do chính sách áp bức của thực dân Pháp và phong kiến tay sai. Chính những chính sách áp bức đó là nguyên nhân dẫn đến sự bùng nổ của phong trào dân tộc dân chủ Việt Nam từ 1919 đến 1925. Trong bài học hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu về những vấn đề đó.

- Học sinh xung phong tham gia đóng vai và chuẩn bị chu đáo vai diễn trước tiết học.

- Các HS khác quan sát và nhận xét phần diễn của bạn.

+ Đời sống của người nông dân Việt Nam thời kì thuộc Pháp hết sức bần cùng do chính sách áp bức của thực dân Pháp và địa chủ phong kiến.

- Học sinh vận dụng hiểu biết trả lời:

+ Các nhân vật ông bà Nghị Quế đại diện cho giai cấp địa chủ

+ Chị Dậu đại diện cho giai cấp nông dân

- Học sinh lắng nghe, từ kiến thức cũ liên hệ đến những vấn đề sẽ đặt ra trong bài mới theo sự dẫn dắt của giáo viên.

Đóng vai nhân vật giả định sử dụng cho hoạt động hình thành kiến thức mới

Ví dụ 1: Sử dụng PPĐV khi dạy Bài 9 Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917( LS 11)

Hoạt động tìm hiểu Tình hình nước Nga trước Cách mạng.

Mục tiêu: HS nắm được tình hình kinh tế, chính trị, xã hội nước Nga trước cách mạng, rút ra nguyên nhân bùng nổ cách mạng Nga

Cách thức: Sử dụng phương pháp đóng vai, phát vấn…

Hoạt động của GV

Hoạt động của học sinh

A- Chuẩn bị

GV giao nhiệm vụ từ tiết học trước:

· GV nêu tình huống yêu cầu học sinh đóng vai phóng viên của đài truyền hình Việt Nam đang tác nghiệp tại đế quốc Nga ghi lại tình hình nước Nga trước khi bùng nổ cách mạng tháng Mười năm 1917.Phản ánh 3 nội dung: Kinh tế, xã hội,Chính trị nước Nga

· Thời gian cho HS trình bày sản phẩm là 5 phút.

· Mỗi nhóm sẽ chọn một lĩnh vực để thể hiện: kinh tế, chính trị, kinh tế và chọn người phụ trách chính.

· Các nhóm bàn bạc thống nhất kịch bản và thông qua kịch bản với GV. Sau khi kịch bản được thông qua HS sẽ đóng vai theo kế hoạch đã thống nhất.( sản phẩm kịch bản thảo luận ở phần PHỤ LỤC 3.3)

B.- Thực hiện trong giờ học

· GV: Chúng ta hãy trở về quá khứ, kết nối với phóng viên của đài truyền hình Việt Nam đang tác nghiệp tại đế quốc Nga đầu thế kỉ XX cũng theo dõi rõ hơn về nước Nga thời điểm này.

· Sau khi học sinh thể hiện GV yêu cầu HS khác nhận xét, sau đó GV sẽ nhận xét: Kịch bản, nội dung và bình chọn vai diễn thể hiện tốt nhất…

· Trên cơ sở trình bày của HS ở các nhóm GV phát vấn: qua đoạn phóng sự trên em hãy cho biết:

Nước Nga trước cách mạng tồn tại những mâu thuẫn nào?

Mâu thuẫn nào là cần giải quyết trước tiên? Vì sao?

- GV chốt ý: Nước Nga đầu thế kỉ XX là nơi yếu nhất trong hệ thống các nước đế quốc, yêu cầu đặt ra cho nước Nga lúc này là lật đổ chế độ phong kiến Nga hoàng, đưa nước Nga ra khỏi chiến tranh. Nước Nga đang tiến sát tới một cuộc cách mạng.

- HS xung phong thực hiện nhiệm vụ

- HS thể hiện vai diễn được phân công

HS trình bày kết hợp với trình chiếu tư liệu hỗ trợ

Ví dụ 2: Khi dạy chủ đề Lịch sử Việt Nam từ 1858 -1884 ( Lịch sử 11), GV tổ chức HS đóng vai phiên tòa giả định trong cuộc tranh luận về vấn đề: Trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay Pháp cuối thế kỉ XIX. Với chủ đề này GV tổ chức dạy 3 tiết, phần tổ chức tranh luận được tiến hành ở tiết 3.

A. Chuẩn bị: Sau khi học xong 2 tiết của chủ đề để chuẩn bị cho chủ đề 3 GV yêu cầu HS về nhà tìm hiểu trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay Pháp.

GV chia lớp thành 3 nhóm( nhóm được lựa chọn theo hình thức bốc thăm ngẫu nhiên). Các nhóm bầu nhóm trưởng.

Nhóm 1: Ủng hộ nhà Nguyễn

Nhóm 2: Cho rằng nước ta rơi vào tay Pháp là trách nhiệm nhà Nguyễn

Nhóm 3: Đóng vai là Hội đồng của phiên tòa Lịch sử

Nhóm 3: Hội đồng xét xử phiên tòa

Nhóm 1: Nhà Nguyễn có nhiều công lao đối với Lịch sử dân tộc.

Nhóm 2: Nhà Nguyễn là nguyên nhân để nước ta rơi vào tay Pháp cuối thế kỉ XIX.

Nhiệm vụ cụ thể của các nhóm

Nhóm 1: đưa ra các luận điểm để bảo về quan điểm của mình.

Nhóm 2: đưa ra các luận điểm bảo vệ quan điểm của nhóm mình.

Nhóm 1: phản biện các luận điểm của nhóm 2.

Nhóm 2: phản biện các luận điểm của nhóm 1.

Nhóm 3: Hội đồng xét xử của Phiên tòa đưa ra các luận điểm dựa trên các tiêu chí đánh giá về nhà Nguyễn.

Trong quá trình chuẩn bị, GV kiểm tra việc thực hiện của các nhóm, chỉnh sửa nội dung, thống nhất kịch bản.

B. Tiến hành dạy trên lớp:

- Đại diện hội đồng phiên toà đọc vấn đề tranh luận“Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Đến năm 1884, việc kí Hiệp ước Pa-tơ-nốt đã chấm dứt sự tồn tại của triều đình phong kiến nhà Nguyễn với tư cách là một quốc gia độc lập, thay vào đó là chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Xung quanh việc đánh giá trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để Việt Nam rơi vào tay thực dân Pháp có rất nhiều ý kiến khác nhau.

Ý kiến nhóm 1: Nhà Nguyễn là một triều đại có công với LS dân tộc.

Ý kiến nhóm 2: Nhà Nguyễn phải chịu trách nhiệm hoàn toàn trong việc để Việt Nam rơi vào tay thực dân Pháp.

- Các nhóm thảo luận trong vòng 3 phút sau đó đại diện các nhóm trình bày quan điểm, luận chứng để bảo vệ quan điểm của nhóm mình( mỗi nhóm có 3 phút để trình bày)

- Chủ tọa phiên tòa sẽ đọc kết luận cuối cùng.

- GV nhận xét về các hoạt động trong buổi tranh luận và phần đóng vai của nhóm 3: phong thái, nội dung kết luận của phiên tòa, góp ý, biểu dương…

Áp dụng PPĐV cho phần tìm tòi, mở rộng (hoạt động ở nhà)

Ví dụ 1: Sau khi học xong bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng đầu thế kỉ XX ở Việt Nam ( Lịch sử 11), GV yêu cầu HS đóng vai là người thanh niên cứu nước để viết về xu hướng cứu nước (Theo khuynh hướng dân chủ tư sản) mình ủng hộ và lí do mình theo đuổi con đường cứu nước đó. Việc yêu cầu viết tiểu luận này nhằm phát triển và làm sâu sắc thêm nhận thức lịch sử-tư duy lịch sử của học sinh và cũng là để các em được tổng hợp những gì đã thu nhận sau giờ học.

Ví dụ 2: Sau khi học xong bài 20: Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc từ thế kỉ X –XV( Lịch sử 10), GV yêu cầu HS đóng vai hướng dẫn viên du lịch giới thiệu về công trình kiến trúc, văn hóa tín ngưỡng, nghệ thuật ở quê hương em cho chương trình quảng bá du lịch địa phương. Sản phẩm của HS sẽ được thực hiện khi tiến hành tiết học tiếp theo.

Với cách tổ chức và hướng dẫn học sinh thực hiện đóng vai như trên, tôi thấy đây là chuyển biến mạnh mẽ trong đổi mới PPDH, GV là người hướng dẫn, quan sát, chỉ đạo quá trình học của học sinh còn học sinh là người trực tiếp tham gia vào quá trình học, tự học, khám phá kiến thức.

2.3. Đóng vai tình huống

Trong quá trình dạy học có nhiều phương pháp dạy học tích cực được áp dụng mang lại hiệu quả cao. Trong đó việc GV tạo tình huống và học sinh giải quyết tình huống bằng phương pháp đóng vai có ý nghĩa quan trọng. Tình huống là những sự kiện, hoàn cảnh có mâu thuẫn, có vấn đề cần được giải quyết.

Khi giáo viên tổ chức đóng vai giải quyết tình huống sẽ giúp học sinh hiểu sâu sắc nội dung bài học, nắm vững kĩ năng, tạo điều kiện cho học sinh vào vị trí trung tâm của hoạt động, phát triển năng lực nhận thức, tư duy sáng tạo cho học sinh. Khi áp dụng phương pháp này sẽ hạn chế lối học thụ động, học sinh chủ động tư duy sáng tạo, tăng sự hứng thú, giờ học sôi nổi.

Khi dạy kiến thức mới HS sẽ tự tưởng tượng về nhân vật thông qua dữ liệu tình huống. GV đưa ra tình huống mà học sinh chưa biết và sẽ biết khi học xong bài học. GV là người xây dựng tình huống còn HS đảm nhận vai trò là người giải quyết tình huống.

Quy trình thực hiện khi đóng vai tình huống:

- Bước 1: Lựa chọn tình huống. Giáo viên tạo tình huống ngay khi vào bài học, hoặc trong quá trình dạy bài mới giáo viên lựa chọn tình huống và tạo tình huống có vấn đề

- Bước 2: Giáo viên chia nhóm, các nhóm tự bàn bạc và lựa chọn người diễn xuất

- Bước 3: Sau khi phân vai các nhóm bàn bạc cách giải quyết tình huống mà giáo viên đưa ra

- Bước 4: Thể hiện vai diễn để giải quyết tình huống

- Bước 5: Đánh giá xem nhóm nào giải quyết tình huống tốt hơn. Giáo viên chốt kiến thức

Giáo viên phải dự kiến phân bố thời gian hợp lý cho từng hoạt động nghiên cứu tình huống kết hợp với đóng vai thể hiện tình huống. Điều này rất quan trọng vì nó sẽ ảnh hưởng đến tiến trình lên lớp. Nếu kéo dài thời gian đóng vai, giờ học sẽ trở thành “diễn kịch” và nội dung của tình huống cần giải quyết có thể bị lan man, giờ dạy học sẽ kém hiệu quả. Cần lưu ý rằng phần đóng vai không phải là nội dung chính của bài học mà giáo viên phải phân bố hợp lý để có sự xâu chuỗi, từ tìm hiểu tình huống, thể hiện qua đóng vai, thông qua hệ thống câu hỏi để rút ra nội dung cơ bản của bài học. Việc diễn không phải là phần chính mà quan trọng là thảo luận sau phần diễn ấy. Học sinh thường làm theo tổ nhóm để giải quyết tình huống. Học sinh không có sự chuẩn bị trước ở nhà như đóng vai nhân vật mà được giáo viên thông báo tình huống và yêu cầu giải quyết tình huống ngay tại lớp. Vì vậy, giáo viên phải luôn chủ động về mặt thời gian, đảm bảo đúng yêu cầu về lý luận dạy học, tuân thủ lô gic của quá trình dạy học.

Ví dụ: Khi dạy cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 -1933 sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu về cuộc khủng hoảng và hậu quả của nó, Giáo viên tổ chức cho học sinh đóng vai người đứng đầu chính phủ các nước tư bản đề xuất cách giải quyết khủng hoảng…Khi học sinh nhập vai các lực lượng chính trị để giải quyết khủng hoảng sẽ tạo sự hứng thú trong quá trình tìm hiểu kiến thức, kích thích khả năng sáng tạo, trình bày được quan điểm cá nhân về một vấn đề lịch sử.

Đối với hình thức này GV có thể áp dụng trong các bài dạy về các chiến dịch trong kháng chiến chống Pháp, hoặc các chiến lược chiến tranh trong kháng chiến chống Mỹ (1954 -1975), sau khi trình bày về âm mưu và hành động của địch, GV nêu tình huống cho học sinh đóng vai đề xuất các phương án để đánh bại âm mưu, thủ đoạn đó.

Sử dụng đóng vai tình huống trong phần khởi động bài học

Ví dụ : Thiết kế hoạt động khởi động bằng phương pháp đóng vai khi dạy Bài 10: Cách mạng khoa học-công nghệ và xu thế toàn cầu hóa (Lịch sử 12- Ban cơ bản)

Hoạt động khởi động (5 phút)

Mục tiêu: Nhằm tạo mâu thuẫn nhận thức giữa kiến thức đã biết và chưa biết có liên quan đến bài học, yêu cầu học sinh xác định nhiệm vụ học tập của bài và giáo viên dẫn dắt vào bài mới.

Cách thức: Tổ chức đóng vai cặp đôi ăn ý.

Hoạt động của giáo viên

Hoạt động của học sinh

1. Giáo viên nêu vấn đề

- Giáo viên chọn 2 cặp đôi nam – nữ tham gia đóng vai “Cặp đôi hoàn hảo”.

- Nhiệm vụ :

· Các cặp đôi nghe bài hát “Ông bà anh” của tác giả Lê Thiện Hiếu.

· Đóng vai thể hiện tình yêu của ông bà ngày xưa và tình yêu của đôi bạn trẻ ngày nay trên nền nhạc bài hát để minh họa cho lời bài hát.

· Thời gian trình bày : 1 phút 30 giây.

2. Sau khi các cặp đôi biểu diễn xong, giáo viên đánh giá và tuyên bố cặp đôi hoàn hảo chung cuộc và phát vấn:

Sau khi nghe bài hát và quan sát các bạn biểu diễn em hãy cho biết chủ đề của bài hát là gì?

3. Giáo viên đưa ra thông tin phản

hồi và giới thiệu vào nội dung bài học:

Đây là bài hát về tình yêu nhưng trong đó đã đề cập đến những tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đối với đời sống của con người. Với sự phát triển của khoa học - công nghệ đã đưa con người đến gần nhau hơn nhưng cũng đẩy con người xa nhau hơn. Bài hát chỉ mới thể hiện một khía cạnh nhỏ những tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trong thời kì hội nhập hiện nay. Vậy cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã diễn ra như thế nào? Nguyên nhân, đặc điểm và tác động của nó là gì? Bài học hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu.

- Học sinh xung phong tham gia đóng vai

- Tất cả học sinh hứng khởi nghe bài hát và quan sát các cặp đôi biểu diễn.

- Các thành viên tham gia đóng vai thực hiện theo đúng luật chơi giáo viên đã đưa ra.

- Học sinh vận dụng hiểu biết trả lời:

Đây là bài hát có chủ đề về tình yêu.

- Học sinh lắng nghe, từ kiến thức cũ liên hệ đến những vấn đề sẽ đặt ra trong bài mới theo sự dẫn dắt của giáo viên.

Sử dụng đóng vai tình huống trong phần hình thành kiến thức mới

Ví dụ 1: Thiết kế hoạt động hình thành kiến thức mới bằng phương pháp đóng vai tình huống khi dạy bài 15: Nước Đức giữa hai cuộc chiến tranh thế giới 1918 -1939 ( Lịch sử 11)

Hoạt động tìm hiểu: Khủng hoảng kinh tế và Đảng Quốc xã lên nắm quyền ở Đức

Mục tiêu: Học sinh nắm được hậu quả của cuộc khủng hoảng đối với nước Đức, quá trình lên nắm quyền của Hít le và Đảng quốc xã.

Cách thức: Giáo viên tạo tình huống và yêu cầu học sinh đóng vai các lực lượng chính trị trong xã hội Đức lúc bấy giờ giải quyết khủng hoảng ( Đảng cộng sản Đức, Giai cấp tư sản – nền cộng hòa vai ma, Đảng Quốc xã)

Hoạt động của giáo viên

Hoạt động của học sinh

- Bước 1: GV tạo tình huống có vấn đề: Trước hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 -1933, các lực lượng chính trị trong xã hội nước Đức giải quyết khó khăn này như thế nào?

- Bước 2: Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm đóng vai các lực lượng chính trị giải quyết khủng hoảng.

-Thời gian để các nhóm thảo luận là 3 phút.

- Bước 3: đại diện các nhóm trình bày cách giải quyết khủng hoảng trước lớp.

+ Nền cộng hòa Vai ma

+ Đảng cộng sản Đức

+ Đảng quốc xã

- Đại diện các nhóm trình bày cách giải quyết của nhóm mình GV nhận xét và đặt câu hỏi: Như vậy trong các lực lượng chính trị xã hội ở nước Đức thì cuối cùng Đảng quốc Xã đã lên nắm quyền? Vậy nguyên nhân nào làm cho chủ nghĩa phát xít thắng thế ở Đức?

- Học sinh nhận nhiệm vụ và thực hiện theo yêu cầu của giáo viên.

Ví dụ 2: Thiết kế hoạt động hình thành kiến thức mới bằng phương pháp đóng vai tình huống khi dạy bài 12: Tây Âu hậu kì trung đại tiết 2 ( Lịch sử 10 )

Hoạt động tìm hiểu hệ quả của cuộc phát kiến địa lí

Mục tiêu: Hiểu và đánh giá được những tác động tích cực và tiêu cực của cuộc phát kiến địa lí đến tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại

Cách thức: Tổ chức học sinh đóng vai tình huống: một nhóm đóng vai đại diện cho người dân thuộc địa, một nhóm đóng vai đại diện những nhà phát kiến địa lí.

Hoạt động của GV

Hoạt động của HS

- Bước 1: Gv tạo tình huống: Em hãy quan sát hình ảnh sau đây và trả lời câu hỏi:

Hình ảnh trên phản ánh nội dung gì?

GV chuyển ý: đó là hình ảnh phản ánh hai lực lượng: một là người dân thuộc địa và những nhà phát kiến Châu Âu.

- GV đặt yêu cầu: để nắm rõ hơn hệ quả của phát kiến địa lí cô chia lớp thành hai nhóm: nhóm đóng vai đại diện cho người dân thuộc địa nói lên quan điểm của mình về cuộc phát kiến địa lí, nhóm đóng vai đại diện cho thương nhân Châu Âu trình bày mục đích của mình khi tiến hành các cuộc phát kiến

+ thời gian cho các nhóm thảo luận là 2 phút và trình bày quan điểm của mình trước lớp 3 phút

+ tư liệu : SGK

- Các nhóm tiến hành trình bày sản phẩm của nhóm mình

- GV điều hành cuộc tranh luận và chốt ý: Như vậy cuộc tranh luận của hai đại diện cho ta thấy tính 2 mặt trong hệ quả của phát kiến địa lí:

+ Mở ra con đường mới, thị trường mới…Góp phần thúc đẩy sự khủng hoảng và tan rã của chế độ phong kiến Châu Âu.

+ Tình trạng bóc lột và buôn bán nô lệ…

- HS quan sát hình ảnh và trả lời câu hỏi.

- Các nhóm tiến hành trình bày sản phẩm của nhóm mình

+ những nhà phát kiến:

chúng tôi tìm kiếm vùng đất mới là để phục vụ mục đích giao thương buôn bán, đem đến nền văn minh mới, khai sáng cho những vùng đất mới và đồng thời đưa đến những cái nhìn mới mẻ về thế giới cho các bạn.

+ người dân thuộc địa:

Các ngài nói đi khai phá văn minh nhưng tại sao lại bóc lột, đàn áp chúng tôi?

+ những nhà phát kiến

À! Chẳng qua do cách thể hiện, do bất đồng ngôn ngữ nên chúng tôi sử dụng ngôn ngữ cơ thể

+ người dân thuộc địa:

Các ngài nói đi khai phá văn minh nhưng tại sao những người dân ở Châu Phi, Châu Á vẫn nghèo nàn, lạc hậu…

Ví dụ 3: Khi dạy bài 20: Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc từ thế kỉ X –XV( Lich sử 10), Hoạt động tìm hiểu khoa học kĩ thuật, GV nêu tình huống bằng câu chuyện giai thoại trong Lịch sử (trích từ Sách kể chuyện thần đồng Việt Nam): Một lần, cậu bé Vũ Hữu cùng cha Vũ Bá Khiêm sang nhà bà con chơi. Bấy giờ, ông chủ nhà có cái điếu thuốc lào khảm bạc, được chạm trổ rất kỳ công, cả vùng không ai có. Trong cuộc hàn huyên giữa hai người, ông chủ nhà muốn làm cái nỏ điếu bằng bạc nhưng ngặt nỗi không biết tính toán thế nào để mua đủ bạc. Nhớ đến cậu bé Hữu, ông nhờ tính toán toán lượng bạc cần thiết. Em hãy đóng vai Vũ Hữu giúp bác chủ nhà?

Như vậy khi đóng vai Vũ Hữu để giải đáp tình huống trên HS vừa nắm được kiến thức toán học, kiến thức lịch sử vừa rèn kĩ năng xử lí nhanh tình huống do GV đưa ra. HS sẽ thấy hứng thú vì phát huy khả năng toán học trong giờ học Lịch sử.

Sử dụng PPĐV trong các trò chơi đố vui lịch sử ở phần củng cố bài học.

Có hai cách GV có thể sử dụng PPĐV trong trò chơi ở phần củng cố bài học: Cách 1: HS thay nhau bắt thăm phiếu học tập (có ghi 1 câu nói nổi tiếng của nhân vật) và đóng vai nhân vật thể hiện diễn cảm câu nói đó. HS còn lại đoán nhân vật đó là ai. Cách 2: HS bốc thăm phiếu học tập (có ghi tên nhân vật) và bằng những kiến thức Lịch sử của mình, diễn trước lớp về nhân vật đó làm sao cho các HS còn lại đoán đó là nhân vật nào.

Khi dạy bài 27, 28 “ Sơ kết Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến nửa đầu thế kỉ XIX” (LS10), GV tổ chức trò chơi bằng cách đưa các phiếu học tập, mỗi phiếu ghi câu nói nổi tiếng của một nhân vật Lịch sử. Em hãy bốc thăm và đọc diễn cảm câu nói trong phiếu học tập để giúp các bạn nhận biết đó là nhân vật Lịch sử nào.

Phiếu học tập 1: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người!”

Phiếu học tập 2: "Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!"

Phiếu học tập 3: "Nếu bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu thần trước đã"

Phiếu học tập 4: "Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Ta đã bị bắt thì có một chết mà thôi, can gì mà phải hỏi lôi thôi."

Phiếu học tập 5: "Chưa trả thù nhà, đền nợ nước. Làm sao cho xứng mặt nam nhi?"

Như vậy với cách 1 GV soạn sẵn câu nói nổi tiếng còn HS là người thể hiện câu nói đó. Trong khi cách 2, HS phải tự sáng tạo kịch bản và thể hiện trước lớp, như vậy với cách này HS phải có vốn kiến thức nhất định về nhân vật Lịch sử. Vì vậy cách 2 thường áp dụng cho HS khá giỏi, còn cách 1 thì đa số HS trong lớp đều có thể tham gia thực hiện.

III. Thực nghiệm sư phạm

1. Mục đích thực nghiệm

Thực nghiệm sư phạm là một khâu quan trọng nhằm kiểm chứng tính khả thi của đề tài và khả năng áp dụng phương pháp đóng vai vào thực tế một cách có hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn lịch sử ở nhà trường phổ thông.

2. Nhiệm vụ của thực nghiệm

Trong phạm vi thời gian và khả năng tiến hành thực nghiệm, tôi tập trung nhằm giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau:

· Chọn đối tượng để tổ chức thực nghiệm

· Xác định nội dung và phương pháp thực nghiệm

· Chuẩn bị kế hoạch bài học, phương tiện dạy học, công cụ đánh giá

· Lập kế hoạch và tiến hành thực nghiệm

· Xử lí kết quả thực nghiệm và rút ra kết luận

3. Tiến hành thực nghiệm

3.1. Chọn đối tượng thực nghiệm

Quá trình thực nghiệm của tôi được tiến hành tại trường THPT Phan Thúc Trực ở các lớp tôi đang tiến hành giảng dạy khối 10. Tôi đã chọn 2 lớp: 1 lớp đối chứng và 1 lớp thực nghiệm để dạy.

Lớp thực nghiệm

Lớp đối chứng

Lớp

Số học sinh

Lớp

Số học sinh

10A1

42

10A2

42

Bảng 1: Các lớp và số học sinh tham gia thực nghiệm

Như vậy lớp thực nghiệm và đối chứng có tương đương nhau về sĩ số, tôi tiến hành điều tra chất lượng ban đầu của hai lớp qua kết quả học kì 1.

Lớp

Sĩ số

Kết quả học kì 1 môn lịch sử lớp 10 năm học 2018 -2019

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

10A1

42

8

19

22

52

12

29

0

0

10A2

42

7

17

23

54

12

29

0

0

Bảng 2: Bảng thống kê kết quả học kì 1 môn Lịch sử của lớp ĐC và TN

Qua kết quả học tập bộ môn ở học kì 1 thì hai lớp ĐC và TN là tương đương nhau về kết quả học tập môn Lịch sử. Loại giỏi ở lớp ĐC và TN là:(19% và 17%) Khá là(52% và 54%), TB là (29%) không có học sinh điểm yếu bộ môn.

Thời gian thực nghiệm: năm học : 2018 – 2019 ( tuần 23)

3.2. Nội dung thực nghiệm.

Cả hai lớp này đều được dạy cùng một bài:

Bài 20: Xây dựng và phát triển văn hóa từ thế kỉ X –XV ( chương trình lịch sử 10 –CB)

3.3. Tiến hành dạy thực nghiệm

- Các lớp thực nghiệm: sử dụng phương pháp đóng vai, trò chơi, hoạt động nhóm kết hợp với việc sử dụng các phương tiện, thiết bị dạy học hiện đại (máy tính, máy chiếu…) ( Giáo án thực nghiệm ở phần PHỤ LỤC 2)

- Các lớp đối chứng: Sử dụng chủ yếu các phương pháp dạy học truyền thống (thuyết trình, đàm thoại gợi mở..)

Sau khi dạy Bài 20 : Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc từ thế kỉ X –XV, tôi đã cho học sinh làm một bài kiểm tra 15 phút: hình thức: Tự luận ở cả lớp thực nghiệm và lớp đối chứng, tiến hành kiểm tra cùng thời điểm ở cả hai lớp. Sau khi kiểm tra, tôi sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu, thống kê toán học và thu được kết quả như sau:

Xếp loại

Lớp thực nghiệm

10A1

Lớp đối chứng

10A2

Tổng

%

Tổng

%

Giỏi (9-10 điểm)

15

36

8

19

Khá (7-8 điểm)

27

64

21

50

Trung bình (5-6 điểm)

0

0

13

31

Yếu (<5 điểm)

0

0

0

0

Bảng 3: Tổng hợp kết quả thực nghiệm

Ngoài ra tôi tiến hành khảo sát ở 5 GV dạy bộ môn Lịch sử ở trường tôi công tác về thực hiện PPĐV qua năm học: 2018- 2019 và thu được kết quả dưới đây:

Năm học

Kết quả

Dễ thực hiện và có hiệu quả

Khó thực hiện và hiệu quả không cao

Tiếp tục thực hiện và nhân rộng

Không tiếp tục sử dụng

Sử dụng có cải tiến

2018-2019

5/5

100%

0/5

0%

4/5

80%

0/5

0%

1/5

20%

Bảng 4: Bảng khảo sát ý kiến của giáo viên

Qua phân tích kết quả thực nghiệm tôi thấy:

Về phía học sinh: Với việc áp dụng PPĐV các em tiếp nhận một sự trải nghiệm đầy thú vị trong chính lớp học của mình. Các em học tập sôi nổi hơn, thảo luận nhiều hơn, hăng hái phát biểu hơn và chú ý vào bài giảng, nhất là những em học sinh không quan tâm nhiều