I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi...

197
BGIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HC LUT TP.HCHÍ MINH VÕ SMNH VI PHẠM CƠ BẢN HỢP ĐỒNG THEO CÔNG ƯỚC VIÊN NĂM 1980 VHỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUC TVÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CÓ LIÊN QUAN CA PHÁP LUT VIT NAM CHUYÊN NGÀNH: LUT KINH TMÃ S: 62.38.50.01 LUN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HC Người hướng dn khoa hc: GS. TS. NGƯT MAI HNG QUTP.HCHÍ MINH - 2015

Transcript of I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi...

Page 1: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH

VÕ SỸ MẠNH

VI PHẠM CƠ BẢN HỢP ĐỒNG THEO CÔNG ƯỚC VIÊN NĂM 1980

VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ VÀ ĐỊNH HƯỚNG

HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CÓ LIÊN QUAN CỦA PHÁP LUẬT

VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

MÃ SỐ: 62.38.50.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. NGƯT MAI HỒNG QUỲ

TP.HỒ CHÍ MINH - 2015

Page 2: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu

của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là

trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong luận án

chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công

trình nào khác.

Tác giả luận án

Võ Sỹ Mạnh

Page 3: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt

Công ước Viên Công ước Viên năm 1980 của Liên

Hợp quốc về hợp đồng mua bán

hàng hóa quốc tế

CIETAC China International

Economic and Trade

Arbitration Commission

Ủy ban trọng tài thương mại và

kinh tế quốc tế Trung Quốc

Hợp đồng

MBHHQT

Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc

tế

PICC Principles of International

Commercial Contract

Những nguyên tắc hợp đồng

thương mại quốc tế của

UNIDROIT

PECL Principles of European

Contract Law

Những nguyên tắc Luật hợp đồng

châu Âu

TNHH Trách nhiệm hữu hạn

ULIS Uniform Law on the

International Sale of

Goods 1964

Luật thống nhất về mua bán hàng

hóa quốc tế năm 1964

ULF Uniform Law on the

Formation of Contracts for

the International Sale of

Goods 1964

Luật thống nhất về giao kết hợp

đồng mua bán hàng hóa quốc tế

năm 1964

UNCITRAL United Nations

Commission on

International Trade Law

Ủy ban về luật thương mại quốc tế

của Liên hợp quốc

UNIDROIT Insitut International pour

l`Unification des Droits

Privé

Viện Thống nhất Tư pháp Quốc tế

Page 4: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

i

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương

pháp nghiên cứu

7

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 7

1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài 15

1.3. Phương pháp nghiên cứu 18

Chương 2. Những vấn đề lý luận về vi phạm cơ bản hợp đồng mua bán

hàng hóa quốc tế

20

2.1. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: khái niệm và đặc điểm 20

2.2. Vi phạm cơ bản hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: khái niệm và đặc

điểm

28

2.3. Cơ chế pháp luật điều chỉnh về vi phạm cơ bản hợp đồng mua bán hàng

hóa quốc tế

46

Kết luận Chương 2 52

Chương 3. Các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng theo

Công ước Viên

53

3.1. Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên (có so sánh với pháp luật

Việt Nam)

53

3.2. Quy định và thực tiễn xác định yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm

hợp đồng theo Công ước Viên

60

Kết luận Chương 3 86

Chương 4. Chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên 95

4.1. Khái quát về chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên (có

so sánh với pháp luật Việt Nam)

95

4.2. Quy định và thực tiễn áp dụng chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo

Công ước Viên

100

Kết luận chương 4 126

Chương 5. Định hướng hoàn thiện quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng

trong pháp luật Việt Nam

127

5.1. Một số bất cập của quy định và thực tiễn áp dụng quy định về vi phạm cơ 127

Page 5: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

ii

bản trong pháp luật Việt Nam

5.2. Định hướng hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ

bản hợp đồng

153

5.3. Một số giải pháp cụ thể sửa đổi, bổ sung quy định về vi phạm cơ bản hợp

đồng trong pháp luật Việt Nam

161

Kết luận Chương 5 173

KẾT LUẬN 175

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 177

NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN TỚI LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ

Page 6: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Luật Thương mại được Quốc hội Khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày

14/6/2005 (sau đây gọi tắt là Luật Thương mại) và chính thức có hiệu lực từ ngày

1/1/2006, thay thế Luật Thương mại năm 1997. Phải thừa nhận một điều rằng, những

người soạn thảo Luật Thương mại đã rất cố gắng trong việc khắc phục những điểm

chưa phù hợp của Luật Thương mại năm 1997 và đặc biệt là đưa vào Luật Thương mại

nhiều khái niệm, quy định mới nhằm điều chỉnh một số loại hình hoạt động thương

mại mà trước đây Luật Thương mại năm 1997 chưa đề cập tới, ví dụ: mua bán hàng

hóa qua sở giao dịch hàng hóa, nhượng quyền thương mại, logistic, tạm ngừng thực

hiện, đình chỉ thực hiện hợp đồng…

Cũng cần nhấn mạnh thêm rằng, Luật Thương mại có nhiều quy định tốt hơn,

có nhiều điểm mới hơn Luật Thương mại năm 1997. Tuy nhiên, khi xem xét, nghiên

cứu kỹ Luật Thương mại, có thể thấy bên cạnh những điểm mới còn có một số khái

niệm, quy định cần phải được lý giải và làm sáng rõ hơn và một trong số đó là khái

niệm “vi phạm cơ bản” nghĩa vụ hợp đồng với ý nghĩa là căn cứ để áp dụng một số

chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại.

Theo quy định tại khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại thì vi phạm cơ bản là “sự

vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia

không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”. Vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp

đồng là cơ sở pháp lý quan trọng để áp dụng các chế tài trong thương mại, như chế tài

tạm ngừng thực hiện hợp đồng, chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc chế tài hủy

bỏ hợp đồng khi các bên trong hợp đồng không có thỏa thuận về điều kiện áp dụng ba

chế tài này [40, Điều 308, 310, 312]. Tuy nhiên, Luật Thương mại còn thiếu nhiều quy

định có tính hướng dẫn để làm rõ hơn về khái niệm này. Bên cạnh đó, theo Điều 4

Luật Thương mại, trong trường hợp Luật Thương mại hoặc luật chuyên ngành không

quy định thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự [40, Điều 4]. Song, Bộ luật dân sự

năm 1995 cũng như năm 2005 cũng không quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng và

các văn bản dưới luật của Việt Nam hiện hành cũng không có quy định hướng dẫn về

vấn đề này. Đây thực sự là những bất cập của pháp luật Việt Nam. Những bất cập này

nếu không được loại bỏ hay sửa đổi thì việc áp dụng ba chế tài nói trên khó có tính khả

thi. Và như vậy thì sẽ dẫn đến một thực tế là quy định “vi phạm cơ bản hợp đồng” sẽ

Page 7: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

2

khó được áp dụng trong thực tiễn, thậm chí trao cho tòa án, trọng tài thẩm quyền lớn

trong việc xác định có hay không có vi phạm cơ bản hợp đồng.

Trong khi đó, “vi phạm cơ bản hợp đồng” là một chế định pháp luật được sử

dụng trong Công ước Viên. Được ký kết vào năm 1980, có hiệu lực từ năm 1988, đến

nay đã có 83 quốc gia tham gia [170], Công ước Viên được xem là nguồn luật thống

nhất về hợp đồng MBHHQT, đã dung hòa được quan điểm của các quốc gia theo hệ

thống luật Civil Law và Common Law về vấn đề này. Công ước Viên cũng được các

nhà soạn thảo Luật Thương mại “tham khảo” và “căn cứ các nguyên tắc của Công

ước” [62, tr.11; 5] nhằm khắc phục sự “chưa tương thích của Luật Thương mại với

điều ước đã được thừa nhận rộng rãi trên thế giới như Công ước Viên”[62, tr.2; 5].

Điều 25 Công ước Viên quy định “Vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là cơ

bản nếu vi phạm đó gây tổn hại cho bên kia đến mức tước đi đáng kể những gì bên kia

có quyền kỳ vọng từ hợp đồng, trừ khi bên vi phạm không tiên liệu được và một người

có lý trí cũng không tiên liệu được hậu quả đó nếu họ ở vào địa vị và hoàn cảnh tương

tự”. Tương tự Luật Thương mại, Công ước Viên cũng không đưa ra sự giải thích cụ

thể để xác định hành vi vi phạm như thế nào bị coi là vi phạm cơ bản. Tuy nhiên, trải

qua hơn 30 năm tồn tại, thực tiễn giải quyết tranh chấp về hợp đồng MBHHQT có liên

quan đến vi phạm cơ bản hợp đồng, các tòa án và trọng tài tại các quốc gia thành viên

Công ước Viên đã, căn cứ vào từng tình huống cụ thể, xác định có hay không có một

sự vi phạm cơ bản hợp đồng để làm cơ sở áp dụng chế tài hủy hợp đồng, yêu cầu thay

thế hàng hóa…theo Công ước Viên. Vấn đề đặt ra là chế định vi phạm cơ bản hợp

đồng trong Công ước Viên đặt ra những vấn đề gì trong thực tiễn áp dụng?. Việt Nam

học được gì từ những quy định và vận dụng của tòa án, trọng tài một số quốc gia thành

viên của Công ước Viên về vi phạm cơ bản hợp đồng và Việt Nam phải đối mặt với

vấn đề gì khi không sửa đổi để hoàn thiện quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng?

Để trả lời được những câu hỏi này, cần phải có sự nghiên cứu kỹ những quy

định về vi phạm cơ bản trong Công ước Viên. Đó là lý do để Nghiên cứu sinh chọn

vấn đề “Vi phạm cơ bản hợp đồng theo quy định của Công ước Viên năm 1980 về

hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và định hướng hoàn thiện các quy định có liên

quan của pháp luật Việt Nam” làm đề tài Luận án Tiến sĩ Luật học của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và

thực tiễn liên quan đến các quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng trong Công ước Viên

Page 8: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

3

(có so sánh với pháp luật Việt Nam), đề tài đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện

các quy định của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng nhằm, một mặt, tạo

sự phù hợp giữa pháp luật Việt Nam và Công ước Viên, mặt khác tạo cơ sở pháp lý

thuận lợi và dễ áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam trong giao kết và thực hiện

hợp đồng, cho các cơ quan giải quyết tranh chấp của Việt Nam trong việc giải quyết

tranh chấp về hợp đồng MBHHQT khi phải áp dụng quy định về vi phạm cơ bản.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu nói trên, luận án có các nhiệm vụ cụ thể sau đây:

- Làm rõ những vấn đề lý luận về hợp đồng MBHHQT, vi phạm cơ bản hợp

đồng MBHHQT;

- Phân tích, làm rõ quy định về vi phạm cơ bản theo Công ước Viên (có so sánh

với pháp luật Việt Nam) và thực tiễn xác định các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi

phạm hợp đồng theo Công ước Viên của tòa án, trọng tài một số quốc gia thành viên

Công ước;

- Phân tích, làm rõ quy định của Công ước Viên về chế tài do vi phạm cơ bản

(có so sánh với Việt Nam) và thực trạng vận dụng các chế tài này của tòa án, trọng tài

một số quốc gia thành viên Công ước;

- Phân tích những bất cập trong quy định và thực tiễn áp dụng quy định về vi

phạm cơ bản hợp đồng trong pháp luật Việt Nam;

- Đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật có liên quan

của Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng để giúp các cơ quan giải quyết tranh chấp

thuận lợi trong việc áp dụng các chế tài khi có sự vi phạm cơ bản hợp đồng.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Luận án là những vấn đề liên quan đến vi phạm cơ

bản, là các quy định của Công ước Viên và của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản

hợp đồng, về các chế tài được áp dụng khi có sự vi phạm cơ bản hợp đồng. Đối tượng

nghiên cứu của Luận án là sự vi phạm hợp đồng từ phía người bán và người mua trong

hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung, đặc biệt là trong hợp đồng MBHHQT. Đối

tượng nghiên cứu của Luận án còn bao gồm những án lệ, những vụ tranh chấp cũng

như thực tiễn xét xử của các tòa án và trọng tài của một số quốc gia là thành viên của

Công ước Viên liên quan đến việc áp dụng các quy định của Công ước Viên về vi

Page 9: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

4

phạm cơ bản hợp đồng để giải quyết tranh chấp hợp đồng MBHHQT. Ngoài ra, đối

tượng nghiên cứu của Luận án còn bao gồm cả việc phân tích những khó khăn trong

việc áp dụng các quy định về vi phạm cơ bản của pháp luật Việt Nam so với các quy

định của Công ước Viên.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Như tên gọi của Công ước Viên là Công ước quốc tế điều chỉnh

hợp đồng MBHHQT, do đó, về phạm vi nghiên cứu, đề tài giới hạn ở việc phân tích vi

phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên trong mối quan hệ với khái niệm về vi

phạm cơ bản hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam nhưng chỉ đối với hợp

đồng mua bán hàng hóa nói chung và hợp đồng MBHHQT nói riêng.

Vi phạm cơ bản hợp đồng, bản thân nó, luôn gắn liền với việc áp dụng chế tài

hủy hợp đồng. Nói cách khác, phạm vi nghiên cứu về mặt nội dung của Luận án tiến sĩ

này là những vấn đề về vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT theo Công ước Viên

trong mối quan hệ với việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng bằng cách

yêu cầu giao hàng thay thế hoặc hủy bỏ hợp đồng khi người bán hoặc người mua vi

phạm hợp đồng. Theo quy định của Luật Thương mại, khi một bên có sự vi phạm cơ

bản, bên kia có quyền áp dụng cả chế tài hủy hợp đồng, chế tài đình chỉ thực hiện hợp

đồng, chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, do đó phạm vi nghiên cứu của Luận án

về nội dung còn bao gồm cả việc phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về vi

phạm cơ bản hợp đồng, đặc biệt là quy định của Luật Thương mại về vi phạm cơ bản

hợp đồng trong mối quan hệ với việc áp dụng các chế tài tạm ngừng thực hiện hợp

đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng.

- Về không gian: Khi nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định về vi phạm cơ bản

hợp đồng, Luận án phân tích thực tiễn và án lệ tòa án, trọng tài ở một số nước như

Đức, Pháp, Trung Quốc…là những nước đã gia nhập Công ước Viên.

- Về thời gian: Khi phân tích về những vấn đề phát sinh từ thực tiễn áp dụng

Công ươc Viên, Luận án lấy số liệu từ năm 1988, năm Công ước Viên có hiệu lực cho

đến nay.

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Về phương diện lý luận, luận án góp phần củng cố và hoàn thiện cơ sở lý luận

về vi phạm cơ bản trong pháp luật hợp đồng Việt Nam để các nhà lập pháp, các cơ

quan có thẩm quyền, các cán bộ nghiên cứu, các nhà kinh doanh vận dụng trong quá

trình thực hiện, giải quyết tranh chấp hay xây dựng và hoàn thiện pháp luật về vi phạm

cơ bản hợp đồng.

Page 10: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

5

Về phương diện thực tiễn, những quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật

Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng được đề xuất trong luận án sẽ là tài liệu tham

khảo có giá trị cho các nhà lập pháp, cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc hoàn

thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng. Luận án cũng

là tài liệu tham khảo cho trọng tài, tòa án khi xem xét vi phạm cơ bản hợp đồng nhằm

áp dụng đúng các chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng

và hủy bỏ hợp đồng. Luận án cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho các doanh nghiệp

Việt Nam khi soạn thảo hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và hợp đồng

MBHHQT nói riêng.

5. Những điểm mới của Luận án

- Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống và toàn diện cơ sở lý

luận và thực tiễn về vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT theo Công ước Viên có so

sánh với pháp luật Việt Nam.

- Luận án đã phân tích, bình luận, đánh giá một cách khách quan về quy định và

thực tiễn vận dụng quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT theo Công ước

Viên như xác định các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng và chế tài

do vi phạm cơ bản hợp đồng để từ đó có cái nhìn cụ thể và đầy đủ hơn về quy định này

trong Công ước Viên và đặt nó trong mối quan hệ với các quy định về vi phạm cơ bản

theo pháp luật Việt Nam nhằm tìm ra những bất cập, những điểm chưa hợp lý trong

các quy định của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản.

- Luận án đã đưa ra kiến nghị về sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan của

pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản, trên cơ sở chọn lọc các quy định có tính ưu

việt của Công ước Viên về cùng vấn đề nhằm nâng cao tính khả thi cho các quy định

của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản.

- Những đề xuất định hướng và giải pháp cụ thể của Luận án sẽ là cơ sở khoa

học cho việc hoàn thiện các quy định cúa pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp

đồng, từ đó góp phần tạo khung pháp luật phù hợp cho việc giao kết và thực hiện hợp

đồng mua bán hàng hóa của các doanh nghiệp và góp phần thuận lợi cho việc giải

quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng, hợp đồng thương mại nói

chung.

6. Kết cấu của Luận án

Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận án gồm 5

Chương:

Page 11: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

6

Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp

nghiên cứu.

Chương 2. Những vấn đề lý luận về vi phạm cơ bản hợp đồng mua bán hàng

hóa quốc tế

Chương 3. Các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng theo Công

ước Viên.

Chương 4. Chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên.

Chương 5. Định hướng hoàn thiện quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng trong

pháp luật Việt Nam.

Page 12: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

7

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT

VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Việc xác định vi phạm cơ bản hợp đồng luôn mang đến ảnh hưởng nhất định về

quyền lợi và nghĩa vụ đối với các bên và việc áp dụng các chế tài trong thương mại

như tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hay hủy bỏ hợp đồng.

Chính vì vậy, nội dung này được các nhà lập pháp, các nhà nghiên cứu và kể các các

bên trong quan hệ hợp đồng thương mại trong nước và ngoài nước đánh giá là vấn đề

quan trọng và cơ bản, luôn quan tâm để tìm ra phương hướng hoàn thiện.

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước

Ở Việt Nam, tính đến nay, chưa có công trình hay sách chuyên khảo nào nghiên

cứu một cách hệ thống, cụ thể về vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên. Mặc

dù vậy, các nghiên cứu đơn lẻ về vi phạm cơ bản hợp đồng cũng đã có, cụ thể:

Cuốn sách “Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam” của tác giả

Nguyễn Ngọc Khánh được Nxb Tư pháp xuất bản năm 2007 chỉ dành hơn 2 trang

(tr.382&383) để đề cập rất sơ lược về khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng và tác giả

cuốn sách cho rằng định nghĩa về vi phạm cơ bản hợp đồng tại khoản 13 Điều 3 Luật

Thương mại cũng “tương tự” khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng nêu trong Công ước

Viên.

Cuốn sách “Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng” của tác

giả Đỗ Văn Đại, Nxb Chính trị quốc gia xuất bản năm 2010 (tái bản năm 2013), cũng

đã đề cập đến khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng. Tác giả cho rằng “chỉ nên coi

những vi phạm có ảnh hưởng lớn tới hợp đồng mới là cơ bản” và việc xác định tính

chất nghiêm trọng của hành vi vi phạm hợp đồng là “phụ thuộc hoàn cảnh cụ thể và

khi có tranh chấp thì Tòa án sẽ tự xác định”.

Cuốn sách “Luật hợp đồng Việt Nam: Bản án và bình luận bản án” của tác giả

Đỗ Văn Đại, Nxb Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2013 (tái bản lần thứ tư, tập 2),

trong đó tác giả đã đưa ra một số bản án liên quan đến chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng do

không thực hiện đúng hợp đồng từ trang 565-612 có đề cập sơ lược đến vi phạm

nghiêm trọng, vi phạm cơ bản hợp đồng.

Page 13: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

8

Luận văn Thạc sỹ Luật của tác giả Phạm Thị Minh Nguyệt, trường Đại học

Luật Tp.HCM “Vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng và chế tài khi vi phạm cơ bản

nghĩa vụ hợp đồng” năm 2013. Luận văn này chỉ nghiên cứu khái quát về khái niệm vi

phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng thương mại nói chung và theo quy định của Luật

Thương mại, các chế tài áp dụng khi có sự vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.

Bài viết “Hướng tới sự thống nhất pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng ở Việt

Nam” của tác giả Đỗ Văn Đại đăng trong Kỷ yếu Hội thảo “Hoàn thiện các báo cáo rà

soát Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thương mại” do VCCI phối hợp với Văn

phòng Chính phủ tổ chức tại Tp.Hồ Chí Minh ngày 24/8/2011. Tác giả của bài viết này

đã chỉ ra những bất cập trong việc áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng

(được quy định tại Điều 308 Luật Thương mại) và quyền hoãn thực hiện hợp đồng của

bên mua (theo quy định tại khoản 2 Điều 415 Bộ luật dân sự năm 2005) vì những khó

khăn trong việc xác định cái gọi là vi phạm cơ bản hợp đồng – điều kiện để áp dụng

chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng theo quy định của Luật Thương mại.

Bài viết “Vi phạm cơ bản hợp đồng” của tác giả Nguyễn Minh Hằng đăng trên

Báo Diễn đàn doanh nghiệp, ngày 22/3/2010 [30]. Bài viết này phân tích một tranh

chấp giữa bên mua là các Công ty của Argentina và của Hungary, còn bên bán là một

Công ty của Nga. Bên mua đã khởi kiện bên bán và cho rằng bên bán đã có sự vi phạm

cơ bản hợp đồng vì đã không giao hàng như cam kết. Bên bán thì lại cho rằng bên mua

đã có sự vi phạm cơ bản hợp đồng vì đã chậm thanh toán. Tranh chấp được xét xử tại

Hội đồng trọng tài Zurich, phán quyết tuyên ngày 31/5/1996. Tương tự, bài viết “Hủy

hợp đồng do chậm giao hàng” cũng của tác giả Nguyễn Minh Hằng đăng trên Báo

Diễn đàn doanh nghiệp, ngày 22/3/2010 [29], trong đó tác giả đã phân tích căn cứ mà

tòa án tuyên bố hủy hợp đồng trong vụ tranh chấp giữa Công ty Diversitel

Communications Inc. (Canada) và Công ty Glacier Bay Inc. (Mỹ) là do người bán Mỹ

không giao hàng khi hết thời hạn quy định trong hợp đồng. Tranh chấp này đã được

xét xử tại Tòa Công lý tối cao tại Ontario (Canada), phán quyết tuyên ngày 6/10/2003.

Bài viết “Hoàn thiện chế định hợp đồng” của tác giả Phan Chí Hiếu đăng trên

Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4/2005, trong đó tác giả này cho rằng khái niệm vi

phạm cơ bản là một sự vi phạm nghiêm trọng và cần có giải thích thế nào là vi phạm

nghiêm trọng.

Page 14: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

9

Bài viết “Vi phạm cơ bản hợp đồng” của tác giả Đỗ Văn Đại đăng trên Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp, số 9/2004 đã giải nghĩa thuật ngữ “cơ bản”, “vi phạm cơ bản”.

Tác giả này nhấn mạnh một số văn bản quốc tế về hợp đồng như PICC, PECL đều

không sử dụng khái niệm “vi phạm cơ bản”. Theo quan điểm của tác giả này, không

nên tiếp nhận từ nước ngoài những thuật ngữ cũ hoặc không rõ ràng, gây khó khăn

trong áp dụng thống nhất.

Như vậy, có thể thấy các công trình, bài viết của các tác giả ở Việt Nam mới chỉ

đề cập đơn lẻ đến vấn đề về vi phạm cơ bản hợp đồng…Chưa có công trình nào

nghiên cứu vấn đề về vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên trong mối quan hệ

với pháp luật Việt Nam về cùng vấn đề.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

Ở nước ngoài, cũng có một số công trình nghiên cứu về vi phạm cơ bản hợp

đồng liên quan đến đề tài của luận án đã được công bố. Tiêu biểu trong số đó là:

Cuốn sách của tác giả Djakhongir Saidov có tên: “The Law of Damages in

International Sales: The CISG and other International Instruments” (Dịch ra tiếng

Việt là Luật bồi thường thiệt hại trong mua bán quốc tế: Công ước Viên và các công

cụ quốc tế khác) được Nxb Hart Publishing xuất bản năm 2008. Sau khi phân tích

Công ước Viên với ý nghĩa như là Luật bồi thường thiệt hại trong mua bán hàng hóa

quốc tế, tại Chương 5 của cuốn sách này, tác giả Djakhongir Saidov đã phân tích về

khả năng tiên liệu thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra – một trong nhưng yếu

tố cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên. Nói cách khác, tác giả này

phân tích thiệt hại do vi phạm hợp đồng với ý nghĩa là yếu tố cấu thành vi phạm cơ

bản hợp đồng.

Cuốn sách của tác giả Benjamin K.Leisinger có nhan đề: “Fundamental Breach

considering Non-conformity of the goods” (Dịch ra tiếng Việt là Vi phạm cơ bản hợp

đồng – xem xét về tính không phù hợp của hàng hóa) được Nxb Sellier European Law

Publishers xuất bản năm 2007, trong đó phân tích một số vụ tranh chấp liên quan đến

nghĩa vụ của các bên về giao hàng thiếu, giao hàng chậm, giao hàng kém chất

lượng…với ý nghĩa nhấn mạnh vào tính chất không phù hợp của hàng hóa khi một bên

vi phạm hợp đồng và coi tính không phù hợp của hàng hóa đến mức như thế nào thì sẽ

cấu thành một sự vi phạm cơ bản hợp đồng.

Page 15: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

10

Công trình nghiên cứu của tác giả Jorge Ivan Salazar Tamez: “The CISG

Remedies of Specific Performance, Damages and Avoidance, Compared to the

Equivalent in the Mexican Law on Sales” (Dịch ra tiếng Việt là Các chế tài buộc thực

hiện đúng hợp đồng, bồi thường thiệt hại và hủy hợp đồng, so sánh với các chế tài có

liên quan trong Luật mua bán của Mexico) được Nxb ProQuest Information and

Learning Company xuất bản năm 2007. Công trình này nghiên cứu các chế tài buộc

thực hiện đúng hợp đồng, bồi thường thiệt hại và hủy hợp đồng theo Luật mua bán của

Mexico và đặt chúng trong mối quan hệ với khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng là

điều kiện tiên quyết để áp dụng chế tài hủy hợp đồng theo Công ước Viên.

Bài viết “Fundamental Breach of Contract under the CISG: A Controversial

Rule” (Dịch ra tiếng Việt là Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên: Một quy

tắc gây tranh cãi) của tác giả Eduardo Grebler, được đăng trên Tạp chí Proceedings of

the Annual Meeting (American Society of International Law), Vol. 101 (năm 2007).

Trong bài viết này, tác giả Eduardo Grebler đã bình luận Điều 25 Công ước Viên cả về

mặt hình thức lẫn nội dung. Theo tác giả này, về mặt hình thức, việc dịch ra nhiều thứ

tiếng có thể tạo sự không thống nhất trong cách hiểu về Điều 25 Công ước Viên. Về

mặt nội dung, tác giả này cho rằng tính chất cơ bản của vi phạm cơ bản hợp đồng phụ

thuộc vào cái gọi là sự lấy đi đáng kể lợi ích của bên bị vi phạm. Tuy nhiên, thế nào là

sự lấy đi đáng kể lợi ích của bên bị vi phạm lại không được giải thích bởi Công ước

Viên. Điều này gây khó khăn và do đó trong thực tiễn, vấn đề này do cơ quan giải

quyết tranh chấp tự xem xét và quyết định. Trên cơ sở đó, Eduardo Grebler cho rằng

đây là bất cập của chính Công ước Viên liên quan đến khái niệm vi phạm cơ bản hợp

đồng được quy định tại Điều 25 Công ước Viên.

Bài viết “Fundamental Breach of Contract under the UN Sales Convention – 25

years of Article 25 CISG” (Dịch ra tiếng Việt là Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công

ước viên – 25 năm của Điều 25 Công ước Viên), của tác giả Franco Ferrari đăng trên

tạp chí 25 J.L. & Com. 489 (năm 2006). Bài viết này đã phân tích khái niệm vi phạm

cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên dưới góc độ xem xét mức độ của sự vi phạm hợp

đồng, về mức độ của tổn hại với ý nghĩa là những điều kiện tiên quyết để xác định cái

gọi là vi phạm cơ bản hợp đồng và khả năng mà người ta có thể tiên liệu được về

những hậu quả do sự vi phạm hợp đồng đó gây ra. Bài viết này cũng xem xét hành vi

vi phạm cơ bản hợp đồng từ phía người bán trong những tình huống cụ thể như người

Page 16: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

11

bán giao hàng có khiếm khuyết, người bán giao chứng từ chậm hoặc giao chứng từ

không phù hợp với hợp đồng.

Bài viết “The Concept of fundamental breach: Perspectives from the CISG,

UNIDROIT Principles and PECL and case law” (Dịch ra tiếng Việt là Khái niệm vi

phạm cơ bản hợp đồng: triển vọng từ Công ước Viên, những nguyên tắc UNIDROIT,

PECL và án lệ) của tác giả Chengwei Liu đăng trên tạp chí 20 J.L. & Com. 460 (năm

2005). Bài viết này sau khi giới thiệu khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo quy

định tại Điều 25 Công ước Viên, khoản 1 Điều 7.3.1 Bộ nguyên tắc UNIDROIT và

Điều 8:103 của PECL, tác giả Chengwei Liu kết luận rằng cả 3 quy định này là tương

tự nhau mặc dù ngôn từ và nội dung của mỗi điều khoản có một số điểm khác nhau.

Bài viết “Fundamental Breach and the CISG - a Unique Treatment or Failed

Experiment?” (Dịch ra tiếng Việt là Vi phạm cơ bản và Công ước Viên – cách xử lý

duy nhất hay thử nghiệm thất bại) của tác giả Bruno Zeller đăng trên tạp chí 8

Vindobona Journal of International Commercial Law & Arbitration 81 (năm 2004) là

bài đưa ra quan điểm cho rằng việc giải thích Điều 25 Công ước Viên cần phải dựa

vào ý định của các bên giao kết hợp đồng và phải phân tích ý nghĩa của Điều 25 trong

mối quan hệ với hệ thống các chế tài của Công ước Viên đã quy định. Từ đó, tác giả

này cho rằng khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng cần phải được tiếp cận từ vai trò của

khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng trong Công ước Viên hơn là chỉ giải thích nó theo

nghĩa đen.

Bài viết “Avoidance and the notion of fundamental breach under the CISG: An

English perspecitive” (Dịch ra tiếng Việt là Hủy bỏ hợp đồng và khái niệm vi phạm cơ

bản theo Công ước Viên) của tác giả Darren Peacock đăng trên tạp chí 8 Int’l Trade &

Bus. L. Ann. 95 (năm 2003). Bài viết này, sau khi trình bày khái quát về lịch sử ra đời

của Điều 25 Công ước Viên, đã phân tích các khái niệm về “vi phạm”, “tổn hại” và

“khả năng tiên liệu” được sử dụng tại chính khái niệm vi phạm cơ bản trong Điều 25

Công ước Viên. Tác giả của bài viết này cũng so sánh cơ chế áp dụng chế tài hủy hợp

đồng đối với người mua và người bán theo Công ước Viên với cơ chế hủy hợp đồng

theo quy định Luật mua bán hàng hóa của Anh năm 1979.

Bài viết “Case law on the concept of fundamental breach in the Vienna Sales

Convention” (Dịch ra tiếng Việt là Án lệ về khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo

Công ước Viên) của tác giả Leonardo Graffi đăng trên tạp chí Int'l Bus. L.J. 338 (năm

Page 17: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

12

2003). Trong bài viết này, dựa trên nội dung quy định của Điều 25 Công ước Viên, tác

giả này chia khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng ra hai góc độ để phân tích, đó là góc

độ liên quan đến bên có quyền lợi bị vi phạm với cái gọi là “tổn hại đáng kể”, “mong

muốn của người này trên cơ sở hợp đồng” và góc độ liên quan đến người vi phạm với

cái gọi là “khả năng tiên liệu”, “người có lý trí ở vào địa vị và hoàn cảnh tương tự”. Từ

đó, tác giả này đã phân tích khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng trong những tình

huống vi phạm cụ thể của các bên như chậm thực hiện hợp đồng, hàng hóa được giao

có khiếm khuyết.

Bài viết “The Concept of fundamental breach as an International Principle to

create uniformity of commercial law” (Dịch ra tiếng Việt là Khái niệm vi phạm cơ bản

hợp đồng như là nguyên tắc quốc tế để thống nhất pháp luật thương mại) của tác giả

Clemens Pauly đăng trên tạp chí 19 J.L. & Com. 221 (năm 2000). Tác giả này sử dụng

phương pháp phân tích theo nghĩa đen của khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo

Công ước Viên và có so sánh với Điều 2 Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ

(UCC) và Luật nghĩa vụ trong Bộ luật dân sự của Đức (Bürgerliches Gesetzbuch). Bài

viết này phân tích khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng thông qua 3 vụ tranh chấp được

giải quyết bởi tòa án Đức, đó là: Vụ "Fabrics in Wrong Color" (giao vải sai màu),

"Cobalt Sulphate of Different Quality" (Colablt Sulphate không phù hợp về chất

lượng) và "Compressors of Lower Cooling” (máy nén làm lạnh kém) để nêu ra quan

điểm riêng khi vận dụng quy định của Điều 25 Công ước Viên vào các vụ việc tranh

chấp cụ thể.

Bài viết “The Concept of fundamental Breach of Contract under the United

Nations Convention on Contracts for the International Sale of Goods (CISG)” (Dịch

ra tiếng Việt là Khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên năm 1980 về

hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế) của tác giả Robert Koch đăng trong Cuốn

“Review of the Convention on Contracts for the International Sale of Goods (CISG)”

năm 1998. Tác giả này đã giới thiệu một phương pháp giải thích khái niệm vi phạm cơ

bản hợp đồng đang được tòa án tối cao Đức áp dụng. Đó là phương pháp dựa trên

thuật ngữ có kết hợp chặt chẽ với việc trả lời câu hỏi nhằm xác định rõ mục đích của

hợp đồng có bị mất đi do hành vi vi phạm hay không và xác định bên bị vi phạm có

cần áp dụng chế tài hủy hợp đồng hoặc giao hàng thay thế hay không.

Page 18: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

13

Ngoài các công trình nghiên cứu về vi phạm cơ bản hợp đồng như đã nêu ở

trên, còn có một số công trình phân tích về chế tài hủy hợp đồng, theo hướng nhấn

mạnh rằng vi phạm cơ bản hợp đồng là một trong những điều kiện để áp dụng chế tài

này. Ví dụ, bài viết “Avoidance for Breach under the Vienna Convention: A Critical

Analysis of Some of the Early Cases” (Dịch ra tiếng Việt là Hủy hợp đồng do vi phạm

theo Công ước Viên: phân tích một số vụ tranh chấp) của tác giả Alastair Mullis đăng

trong Andreas & Jarborg eds., Anglo-Swedish Studies in Law, Lustus Forlag, năm

1998; Bài viết “The remedial provisions of the Vienna Convention on the international

sale of goods 1980: A small business perspective” (Dịch ra tiếng Việt là Quy định chế

tài của Công ước viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980: triển vọng

kinh doanh nhỏ) của tác giả David G.Fagan đăng trên tạp chí the Journal of Small &

Emerging Business Law, Vol.2:317 (năm 1998); Bài viết “Avoidance of the contract in

case of non-conforming goods (Article 49(1)(a) CISG)” (Dịch ra tiếng Việt là Hủy hợp

đồng khi hàng hóa không phù hợp hợp đồng (Điều 49(1)(a)) của tác giả Ingeborg

Schwenzer đăng trên tạp chí Journal of Law and Commerce, Vol.25:437 (năm 2005);

Bài viết “Avoidance in non-payment situations and fundamental breach under the

1980 U.N Convention on contracts for the international sale of goods” (Dịch ra tiếng

Việt là Hủy hợp đồng trong trường hợp không thanh toán và vi phạm cơ bản hợp đồng

theo Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế) của tác giả Olof

Clausson đăng trên tạp chí N.Y.L.Sch.J.Int’l & Comp.L, Vol.6 (năm 1986); Bài viết

“Cancellation for “material” or “fundamental” breach: A comparative analysis of

South African Law, the UN Convention on contracts for the international sale of goods

(CISG) and the UNIDROIT Principles of International Commercial Contracts” (Dịch

ra tiếng Việt là Chấm dứt hợp đồng do vi phạm cơ bản: phân tích so sánh Luật Nam

phi, Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và Những nguyên tắc

UNIDROIT về hợp đồng thương mại) của tác giả Tjakie Naudé đăng trên tạp chí

Stellenbosch L.Rev, Vol.12 (năm 2001) v.v…

Các công trình nêu trên chỉ phân tích việc áp dụng chế tài hủy hợp đồng theo

Điều 49, Điều 51, Điều 64, Điều 72 và Điều 73 Công ước Viên. Đây là những tài liệu

tham khảo bổ ích vì nó giúp tác giả Luận án Tiến sĩ hiểu rõ hơn về mục đích cuối cùng

của quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng là nhằm để giúp các bên trong hợp đồng

Page 19: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

14

MBHHQT có thể áp dụng chế tài hủy hợp đồng, giao hàng thay thế nếu sự vi phạm

hợp đồng của một bên là vi phạm cơ bản.

1.1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu

Như đã trình bày ở trên, những công trình nghiên cứu ngoài nước phân tích dưới

nhiều góc độ khác nhau về vi phạm cơ bản hợp đồng với ý nghĩa là khái niệm được

quy định tại Điều 25 Công ước Viên và điều kiện áp dụng chế tài yêu cầu giao hàng

thay thế, hủy hợp đồng theo quy định tại các Điều 46, 49, 51, 64,70, 72 và Điều 73

Công ước Viên. Trong khi đó, ở Việt Nam thì chưa có công trình nào nghiên cứu trực

tiếp khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên mà đơn thuần chỉ là

những quan điểm phản ánh sự khó khăn do tính phức tạp trong quy định về vi phạm cơ

bản hợp đồng tại khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại. Nhìn chung, các bài viết, công

trình nghiên cứu chưa đề cập một cách chuyên sâu, toàn diện về những vấn đề liên

quan đến khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên và theo pháp luật

Việt Nam nhằm làm rõ những bất cập của cả Công ước Viên và của cả pháp luật Việt

Nam về vấn đề này. Qua tìm hiểu tình hình nghiên cứu ở trong nước và ngoài nước

liên quan đến đề tài luận án, tác giả đưa ra những nhận định như sau:

1.1.3.1. Những vấn đề đã được giải quyết

- Khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng trong Công ước Viên còn mang tính trừu

tượng, do đó, nhiều tác giả nước ngoài đã phân tích về tổn hại và mức độ tổn hại; về tính

không phù hợp của hàng hóa; về mục đích của việc giao kết hợp đồng.v.v…và coi đó là các

tiêu chí xác định tính chất cơ bản của hành vi vi phạm hợp đồng để giải thích khái niệm vi

phạm cơ bản hợp đồng được quy định trong Công ước Viên. Tùy theo cách tiếp cận, cách

hiểu của từng tác giả mà khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng nên được áp dụng như thế nào

trong thực tiễn. Quan điểm của các tác giả này có giá trị khoa học ở chỗ là họ đã “mổ xẻ”

khái niệm về vi phạm cơ bản hợp đồng theo quy định của Công ước Viên theo nhiều cách

tiếp cận. Điều này cho thấy khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên cũng

đang gây nhiều tranh luận và chưa có sự thống nhất.

- Một số công trình nghiên cứu của các tác giả ở nước ngoài đã tiếp cận khái niệm vi

phạm cơ bản hợp đồng với ý nghĩa là điều kiện để áp dụng chế tài hủy hợp đồng, giao hàng

thay thế. Điều này cho thấy, về mặt lý luận, các tác giả này đã hiểu khá thống nhất về mục

đích của quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng tại Điều 25 Công ước Viên là nhằm áp dụng

một số chế tài cụ thể khi có sự vi phạm hợp đồng MBHHQT.

Page 20: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

15

- Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT, chế

tài hủy hợp đồng đã được Tòa án một số nước áp dụng khi có sự vi phạm cơ bản. Tuy

nhiên, chưa có tác giả nào hệ thống hóa hay rút ra án lệ cho việc áp dụng vi phạm cơ bản

trong giải quyết tranh chấp về vi phạm hợp đồng MBHHQT.

- Ở Việt Nam, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về vi phạm cơ bản hợp đồng với ý

nghĩa là một chế định pháp luật, dù ở góc độ hợp đồng dân sự cũng như hợp đồng thương

mại và cả hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Trong thực tế, giải quyết tranh chấp về hợp đồng

MBHHQT cũng chưa có nhiều án lệ về vận dụng các quy định về vi phạm cơ bản trong

Luật Thương mại để xem xét việc áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng hay chế tài đình chỉ

thực hiện hợp đồng và tạm ngừng thực hiện hợp đồng.

1.1.3.2. Những vấn đề còn bỏ ngỏ

- Chưa có công trình hay Luận án tiến sĩ Luật học nào nghiên cứu một cách cụ

thể, toàn diện những vấn đề về vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên trong

mối liên hệ, so sánh với các quy định này của pháp luật Việt Nam.

- Chưa có các công trình nghiên cứu, đánh giá hay nhận xét về những khó khăn

trong việc vận dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng

và cũng chưa có các công trình nghiên cứu về việc áp dụng các chế tài khi có sự vi

phạm cơ bản trong thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại của doanh

nghiệp Việt Nam, đặc biệt là chế tài hủy bỏ hợp đồng.

- Chưa có các công trình nghiên cứu những bất cập của pháp luật Việt Nam trong

các quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng nhằm đề xuất giải pháp sửa đổi và hoàn

thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này.

Có thể khẳng định đây là Luận án tiến sĩ Luật học đầu tiên nghiên cứu vấn đề về

vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên trong mối quan hệ với pháp luật Việt

Nam và định hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài

1.2.1. Câu hỏi nghiên cứu

- Hợp đồng MBHHQT là gì? Vi phạm hợp đồng là gì? Vi phạm cơ bản hợp

đồng, vi phạm cơ bản hợp đồng MBHH là gì? Cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với vi

phạm cơ bản hợp đồng?.

- Công ước Viên quy định như thế nào về các yếu tố cấu thành tính cơ bản của

vi phạm hợp đồng và thực tiễn xác định các yếu tố này của tòa án, trọng tài một số

quốc gia thành viên Công ước? Các quy định của Công ước Viên về các yếu tố cấu

Page 21: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

16

thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng có điểm tương đồng với quy định của pháp

luật Việt Nam hay không?

- Khi có vi phạm cơ bản hợp đồng, bên vi phạm phải gánh chịu chế tài nào theo

Công ước Viên và thực tiễn vận dụng các chế tài đó của tòa án, trọng tài ra sao? Các

chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng có điểm tương đồng với các quy định về vi phạm

cơ bản hợp đồng trong pháp luật Việt Nam?

- Những bất cập trong quy định và thực tiễn áp dụng quy định về vi phạm co

bản hợp đồng theo pháp luật Việt Nam là gì? Định hướng nào để hoàn thiện, khắc

phục những bất cập đó? Giải pháp cụ thể để hoàn thiện, khắc phục những bất cập của

quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng và các quy định khác có liên quan là gì?

1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu

Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng của chủ

nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Các quan

điểm của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường, về hội nhập kinh tế quốc tế và về

xây dựng nhà nước pháp quyền cũng là cơ sở phương pháp luận nghiên cứu của luận

án.

Các lý thuyết liên quan đến hợp đồng, hiệu lực hợp đồng, vi phạm hợp đồng, vi

phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng của Việt Nam, chế tài do vi phạm hợp đồng và một số

nước trên thế giới.

1.2.3. Các giả thuyết nghiên cứu

- Vi phạm cơ bản hợp đồng là ngoại lệ của nguyên tắc tuân thủ hiệu lực của hợp

đồng, đòi hỏi chế tài áp dụng phù hợp tác động lên hiệu lực của hợp đồng nhằm đảm

bảo quyền lợi của các bên giao kết hợp đồng. Tính cơ bản của hành vi vi phạm hợp

đồng được xác định trên cơ sở lợi ích mà các bên mong muốn khi giao kết hợp đồng,

không phụ thuộc vào loại hợp đồng.

- Bản chất pháp lý của vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên là dựa

trên tiêu chí chung về lợi ích kỳ vọng của các bên trên cơ sở hợp đồng bị lấy đi đáng

kể. Vì vậy, tổn hại do hành vi vi phạm hợp đồng không phải là yếu tố bắt buộc khi xác

định vi phạm cơ bản hợp đồng.

- Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên vừa mang yếu tố khách quan

(cơ quan tài phán ra phán quyết dựa vào những gì bên bị vi phạm mong muốn trên cơ

Page 22: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

17

sở hợp đồng có bị ảnh hưởng nghiêm trọng hay không), vừa mang tính chủ quan (khả

năng tiên liệu được hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng cần được xem xét).

- Chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng là rất nặng nề đối với bên vi phạm nhưng

là cơ sở nhằm đảm bảo kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của bên vi phạm. Vì thế,

quy định của Công ước Viên cho phép các bên lựa chọn biện pháp khác như khắc phục

vi phạm bằng sửa chữa hoặc giao hàng thay thế trước khi lựa chọn giải pháp cuối cùng

là hủy hợp đồng.

- Quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng trong pháp luật của Việt Nam cũng ẩn

chứa những bất cập, không tương thích với pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước

Viên. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng

cũng thể hiện những bất cập nhất định xuất phát từ những bất cập của bản thân quy

định pháp luật về vi phạm cơ bản hợp đồng.

1.2.4. Về hướng tiếp cận của đề tài nghiên cứu

- Là luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Luật kinh tế, phương pháp tiếp cận

của đề tài là dùng các phương pháp nghiên cứu truyền thống, phù hợp với phương

pháp nghiên cứu luật học để xem xét và luận giải những vấn đề thuộc nội dung nghiên

cứu của Luận án. Đó là các phương pháp hệ thống hóa, phương pháp luận giải, phương

pháp nêu quan điểm và bình luận mang tính phản biện nhằm nêu bật những bất cập

ngay trong quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng của Công ước Viên và của pháp luật

Việt Nam.

- Như tên gọi của luận án đã cho thấy, việc nghiên cứu vấn đề vi phạm cơ bản

hợp đồng theo Công ước Viên phải được đặt trong mối quan hệ với việc xem xét vấn

đề về vi phạm cơ bản hợp đồng trong pháp luật Việt Nam nhằm đề xuất giải pháp sửa

đổi các quy định tỏ ra chưa phù hợp trong pháp luật Việt Nam về vấn đề này, do đó,

phương pháp tiếp cận quan trọng của luận án là dựa trên phương pháp luật học so

sánh. Phương pháp luật học so sánh sẽ giúp tìm ra những điểm tích cực, cả trong lý

thuyết và thực tiễn, những điểm bất cập của chính khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng

để từ đó xây dựng được định hướng sửa đổi pháp luật Việt Nam.

- Mặc dù Công ước Viên chỉ điều chỉnh hợp đồng MBHHQT và mục đích của

những quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng trong Công ước Viên là nhấn mạnh

quyền của bên bán (hoặc bên mua) được áp dụng chế tài hủy hợp đồng khi bên mua

(hoặc bên bán) có sự vi phạm cơ bản hợp đồng. Tuy nhiên, trong pháp luật Việt Nam

Page 23: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

18

lại không có đạo luật dành riêng cho hợp đồng MBHHQT. Do vậy, hướng tiếp cận của

đề bài nghiên cứu là phải lập luận để làm rõ những điểm tích cực trong các quy định

của Công ước Viên về vi phạm cơ bản hợp đồng làm cơ sở kiến nghị hoàn thiện quy

định về vi phạm cơ bản hợp đồng thương mại của Việt Nam bởi vi phạm cơ bản hợp

đồng không bị chi phối hay ảnh hưởng bởi loại hợp đồng.

1.2.5. Kết quả nghiên cứu

- Làm rõ những vấn đề lý luận về hợp đồng MBHHQT, vi phạm cơ bản hợp

đồng, vi phạm cơ bản MBHHQT, cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với vi phạm cơ bản

hợp đồng.

- Làm rõ quy định và thực tiễn xác định các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi

phạm hợp đồng và chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên (có so sánh

với quy định của pháp luật Việt Nam).

- Phân tích và làm rõ những bất cập của quy định về vi phạm cơ bản trong pháp

luật Việt Nam và bất cập trong việc áp dụng quy định này trên cơ sở quy định và thực

tiễn vận dụng của Công ước Viên. Từ đó, đề xuất định hướng và giải pháp cụ thể cho việc

hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng.

1.3. Phương pháp nghiên cứu

Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, luận án được hoàn thành trên cơ sở của phương

pháp luận nghiên cứu của đề tài là chủ nghĩa Mác – Lênin về duy vật biện chứng và

duy vật lịch sử.

Ngoài ra, để hoàn thiện luận án, các phương pháp nghiên cứu tổng hợp dưới đây

cũng được sử dụng như: phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, hệ thống hóa,

phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và tổng hợp, luận giải và phương pháp

so sánh luật học, cụ thể:

- Phương pháp kết hợp lý luận, lý thuyết với thực ti n: Phương pháp này được sử

dụng xuyên suốt Chương 2, 3, 4 và 5 của luận án. Cụ thể, tác giả sử dụng lý luận, lý

thuyết về vi phạm cơ bản theo Công ước Viên lồng ghép với thực tiễn vận dụng các

quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên của tòa án, trọng tài một số

quốc gia thành viên Công ước (các yếu tố cấu thành vi phạm cơ bản và chế tài do vi

phạm cơ bản) để phân tích, làm rõ quy định của Công ước Viên về vi phạm cơ bản. Từ

đó, làm cơ sở để giải thích, làm rõ những bất cập của quy định về vi phạm cơ bản hợp

đồng trong pháp luật Việt Nam; Kết hợp lý luận và thực tiễn làm cơ sở đề xuất các

Page 24: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

19

định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định có liên quan của pháp luật Việt Nam

về vi phạm cơ bản hợp đồng.

- Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở chương 3, 4

và chương 5 của luận án. Bằng việc thống kê, phân tích các vụ tranh chấp có liên quan

đến vi phạm cơ bản hợp đồng, tác giả tổng hợp thành 2 nhóm vấn đề liên quan đến vi

phạm cơ bản hợp đồng do cơ quan giải quyết tranh chấp xử lý trong các vụ tranh chấp

về hợp đồng MBHHQT có áp dụng Công ước Viên, đó là các yếu tố xác định tính cơ

bản của vi phạm hợp đồng và chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng.

- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng trong tất

cả các chương của luận án. Cụ thể là được sử dụng để đi sâu vào tìm tòi, trình bày các

quan điểm pháp luật về hợp đồng MBHHQT, vi phạm cơ bản hợp đồng và vi phạm cơ

bản hợp đồng MBHHQT (chương 2); Làm rõ các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi

phạm hợp đồng và chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên và thực

tiễn vận dụng quy định này (chương 3, chương 4); Từ đó, phân tích những bất cập

trong quy định có liên quan của pháp luật Việt Nam và đề xuất định hướng, giải pháp

phù hợp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng (chương 5).

- Phương pháp hệ thống hóa: Được sử dụng xuyên suốt toàn bộ luận án nhằm

trình bày các vấn đề, các nội dung trong luận án theo một trình tự, một bố cục hợp lý,

chặt chẽ, có sự gắn kết, kế thừa, phát triển các vấn đề, các nội dung để đạt được mục

đích, yêu cầu đã được xác định cho luận án.

- Phương pháp so sánh luật học: Phương pháp này được sử dụng xuyên suốt

trong toàn văn luận án. Cụ thể là được vận dụng trong việc tham khảo, so sánh quy

định về vi phạm cơ bản hợp đồng của Việt Nam với Công ước Viên, Công ước Viên

với quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng của một số quốc gia và tổ chức quốc tế. Đặc

biệt, chương 5 của luận án, tác giả sử dụng phương pháp này để so sánh và kiến nghị

định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng với

thực tế của đất nước trong điều kiện hội nhập hiện nay.

Page 25: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

20

CHƯƠNG 2

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM CƠ BẢN HỢP ĐỒNG MUA BÁN

HÀNG HÓA QUỐC TẾ

Vấn đề vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT bao gồm và liên quan tới nhiều

vấn đề như hợp đồng MBHHQT, vi phạm hợp đồng MBHHQT và các chế tài áp dụng

cũng như cơ chế pháp luật điều chỉnh loại vi phạm hợp đồng này. Để làm rõ nội dung

của vi phạm cơ bản hợp đồng, tạo tiền đề lý luận cho việc nghiên cứu tiếp các phần

sau của luận án, chương này trình bày khái quát vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT,

gồm các nội dung sau: khái niệm và đặc điểm của hợp đồng MBHHQT, khái niệm vi

phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT và cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với vi phạm cơ

bản hợp đồng MBHHQT.

2.1. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: khái niệm và đặc điểm

2.1.1. Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Cùng với sự tác động của quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế và sự thiết lập các

khuôn khổ pháp lý song phương và đa phương về thương mại, hoạt động mua bán

hàng hóa giữa các cá nhân, tổ chức không chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ quốc gia

mà đã vươn ra phạm vi quốc tế. Phương tiện pháp lý cơ bản để các cá nhân, tổ chức

tiến hành hoạt động mua bán hàng hóa trong phạm vi quốc tế là hợp đồng MBHHQT.

Về mặt thuật ngữ, đến nay, theo những cứ liệu thu thập được thì chưa có Từ

điển chuyên ngành Luật nào đưa ra giải thích thuật ngữ “hợp đồng MBHHQT”, có

chăng chỉ là việc giải thích các thuật ngữ cấu thành thuật ngữ “hợp đồng MBHHQT”,

đó là “hợp đồng”, “mua bán”, “hàng hóa”, “mua bán hàng hóa”…

Về phương diện học thuật, ở trong nước, đã có một số tác giả đưa ra khái niệm

về hợp đồng MBHHQT. Chẳng hạn, theo tác giả Trương Văn Dũng, hợp đồng

MBHHQT là sự thỏa thuận có hiệu lực bắt buộc giữa các bên có trụ sở thương mại

đóng ở các nước khác nhau, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng hóa và chuyển

quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua, bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán

tiền hàng cho bên bán [17, tr.10]. Người viết cho rằng, khái niệm này chưa làm rõ

được cơ sở xác định “hiệu lực bắt buộc” ở đây là theo quy định của pháp luật nào bởi

tính chất quốc tế của hợp đồng thì rất nhiều nguồn luật khác nhau có thể cùng điều

chỉnh hợp đồng MBHHQT. Bên cạnh đó, bản thân hợp đồng mua bán hàng hóa đã là

sự thỏa thuận giữa bên bán và bên mua, sự thỏa thuận này phải đảm bảo tuân thủ quy

Page 26: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

21

định pháp luật điều chỉnh hợp đồng thì nó trở thành “luật” giữa các bên đối với nhau.

Vì vậy, sự nhấn mạnh “hiệu lực bắt buộc” của hợp đồng MBHHQT là không cần thiết.

Tác giả Lê Thị Nam Giang cho rằng “Hợp đồng MBHHQT là sự thỏa thuận

giữa các bên có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau, theo đó bên bán có nghĩa vụ

chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ

nhận tài sản và trả tiền” [27, tr.268]. Khái niệm này chưa thực sự thuyết phục bởi tài

sản là khái niệm rộng, trong đó bao gồm hàng hòa. Hàng hóa là một loại tài sản cụ thể

nhưng tài sản thì chưa hẳn đã là hàng hóa.

Xét về khía cạnh pháp luật thực định thì pháp luật của một số quốc gia trên thế

giới và văn bản pháp lý quốc tế đã có những quy định không giống nhau về hợp đồng

MBHHQT, ví dụ:

- Điều 56 Luật mua bán hàng hóa năm 1979 của Anh quy định hợp đồng

MBHHQT là hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các bên có trụ sở thương

mại (nếu không có trụ sở thương mại thì là nơi cư trú) nằm trên lãnh thổ ở các nước

khác nhau và thỏa mãn các điều kiện sau: (a) Hợp đồng bao gồm mua bán hàng hóa,

mà tại thời điểm ký kết hợp đồng, hàng hóa được chuyên chở từ lãnh thổ của quốc gia

này sang lãnh thổ của quốc gia khác; (b) Chào hàng hoặc chấp nhận chào hàng được

lập trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau; hoặc (c) Việc giao hàng được thực hiện

trong lãnh thổ quốc gia khác với lãnh thổ quốc gia chào hàng hoặc chấp nhận chào

hàng. Như vậy, theo pháp luật Anh Quốc, hợp đồng MBHHQT, trước hết, là hợp đồng

mua bán hàng hóa, tức là hợp đồng theo đó người bán chuyển giao hoặc đồng ý

chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa cho người mua để nhận tiền tương ứng gọi là giá

cả [153, Điều 3]. Cơ sở để xác định hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng

MBHHQT là căn cứ vào ba yêu cầu nêu ra tại Điều 56 ở trên. Để được xem là hợp

đồng MBHHQT, không chỉ đơn thuần là hợp đồng được giao kết giữa những bên có

trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau mà hoạt động mua bán hàng hóa được

thực hiện từ lãnh thổ quốc gia này sang lãnh thổ quốc gia khác, chào hàng hoặc chấp

nhận chào hàng được lập trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau. Rõ ràng, quy định

nói trên của Luật mua bán hàng hóa năm 1979 đã thể hiện việc sử dụng tiêu chí “trụ sở

thương mại” làm cơ sở xác định một hợp đồng là hợp đồng MBHHQT hay hợp đồng

mua bán hàng hóa trong nước.

Page 27: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

22

- Ở Hoa Kỳ, Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ năm 1952 không trực tiếp

đưa ra khái niệm về hợp đồng MBHHQT nhưng đưa ra định nghĩa về giao dịch quốc

tế tại Điều 1-301, theo đó giao dịch quốc tế là giao dịch có mối quan hệ hợp lý với

quốc gia khác với Hoa Kỳ. Và mua bán chính là việc chuyển giao quyền sở hữu từ

người bán sang người mua để nhận tiền. Bộ luật thương mại thống nhất của Hoa Kỳ,

tuy không trực tiếp đưa ra tiêu chí để xác định hợp đồng MBHHQT nhưng việc định

nghĩa giao dịch quốc tế đã thể hiện của tiêu chí “trụ sở thương mại” ở các nước khác

nhau.

Mặc dù các quy định được diễn đạt khác nhau nhưng hợp đồng mua bán hàng

hóa theo pháp luật Anh và Hoa Kỳ đều là sự thỏa thuận về việc chuyển giao quyền sở

hữu hàng hóa từ người bán sang người mua để đổi lại khoản tiền tương ứng. Bên cạnh

đó, hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng MBHHQT khi hợp đồng mua bán hàng

hóa được giao kết bởi các bên có “trụ sở thương mại ở các quốc gia khác nhau”.

Ở phạm vi quốc tế, mặc dù, Công ước Viên không quy định về khái niệm hợp

đồng MBHHQT nhưng Điều 1 của Công ước đã gián tiếp xác định phạm vi của hợp

đồng MBHHQT như sau: “1. Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng

hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau…2. Sự kiện các bên

có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau không tính đến nếu sự kiện này không

xuất phát từ hợp đồng, từ các mối quan hệ đã hình thành hoặc vào thời điểm ký hợp

đồng giữa các bên hoặc là từ việc trao đổi thông tin giữa các bên…”. Như vậy, cơ sở

duy nhất để xác định hợp đồng MBHHQT theo Công ước Viên là trụ sở thương mại

của các bên phải đặt tại các quốc gia khác nhau mà không phụ thuộc vào địa điểm ký

kết hợp đồng và cũng không xét đến việc hàng hóa có được dịch chuyển qua biên giới

hay không.

Từ quy định tại Điều 1, kết hợp với quy định tại Điều 40, Điều 53 Công ước có

thể hiểu hợp đồng MBHHQT là sự thỏa thuận giữa các bên có trụ sở thương mại đặt

tại các nước khác nhau, theo đó một bên (người bán) có nghĩa vụ giao hàng, chuyển

giao chứng từ liên quan đến hàng hóa và quyền sở hữu về hàng hóa cho bên kia (người

mua) và người mua có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng và nhận hàng.

Bên cạnh Công ước viên, PICC đưa ra những quy phạm chung, chủ yếu áp

dụng cho hợp đồng thương mại quốc tế. PICC không đưa ra một định nghĩa rõ ràng,

nhưng khái niệm hợp đồng thương mại phải được hiểu theo một nghĩa rộng nhất có thể

Page 28: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

23

được, không chỉ bao gồm các giao dịch thương mại nhằm cung cấp hay trao đổi hàng

hóa hay dịch vụ, mà còn bao gồm các hình thức giao dịch kinh tế khác như các hợp

đồng về đầu tư và/hoặc ủy thác, các hợp đồng cung cấp các dịch vụ chuyên môn [10,

tr.36]. Tính chất quốc tế của một hợp đồng thương mại, theo PICC, được xác định

bằng nhiều cách. Pháp luật quốc gia và quốc tế đưa ra nhiều giải pháp, từ việc căn cứ

vào trụ sở hay nơi cư trú thường xuyên của các bên tại các quốc gia khác nhau đến

việc áp dụng những tiêu chí tổng quát hơn [35, tr.76]. PICC không nhấn mạnh bất kỳ

tiêu chí xác định tính quốc tế của hợp đồng thương mại quốc tế. Tuy nhiên, tính quốc

tế của hợp đồng thương mại nói chung, hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng cần

được giải thích theo nghĩa rộng nhất có thể, chỉ loại trừ những trường hợp không có

bất kỳ một yếu tố quốc tế nào, nghĩa là khi tất cả các yếu tố cơ bản của hợp đồng chỉ

liên quan đến một quốc gia [10, tr.35].

Ở Việt Nam, hợp đồng MBHHQT, trước khi Luật Thương mại ra đời, còn được

gọi dưới nhiều tên khác nhau như: hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hóa, hợp đồng mua

bán hàng hóa ngoại thương [50], hợp đồng mua bán ngoại thương [56], hợp đồng mua

bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài…

Luật Thương mại có một chương quy định về mua bán hàng hóa (Chương II),

trong đó chỉ có bảy điều luật quy định riêng về MBHHQT và không có điều luật nào

xác định cụ thể, trực tiếp về khái niệm và phạm vi nội hàm của hợp đồng MBHHQT.

Tuy nhiên, dựa vào quy định tại khoản 8 Điều 3 Luật Thương mại và Điều 428 Bộ luật

dân sự, có thể rút ra khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa như sau: Hợp đồng mua

bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng hóa

cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng hóa và trả tiền cho bên

bán. Như vậy, hợp đồng mua bán hàng hóa là dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài

sản trong pháp luật dân sự (theo nghĩa rộng) [2, tr.4].

Luật Thương mại cũng không quy định về khái niệm hợp đồng MBHHQT hoặc

yếu tố quốc tế, nước ngoài của hợp đồng mua bán hàng hóa mà chỉ quy định về

MBHHQT tại Điều 27 như sau: “1. MBHHQT được thực hiện dưới các hình thức xuất

khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu. 2. MBHHQT

phải thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị

pháp lý tương đương”. Như vậy, khoản 1 Điều 27 Luật thương mại đã liệt kê các hình

Page 29: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

24

thức cụ thể của việc mua bán hàng hóa quốc tế, bao gồm 5 hình thức: xuất khẩu; nhập

khẩu; tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập; chuyển khẩu.

Từ đó, có thể suy luận rằng hợp đồng MBHHQT theo pháp luật Việt Nam là

văn bản thỏa thuận của các cá nhân, tổ chức trong việc xuất khẩu, nhập khẩu, tạm

nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu hàng hóa. Hai hay nhiều bên tham

gia giao dịch MBHHQT - một loại giao dịch dân sự hoặc giao kết hợp đồng

MBHHQT theo pháp luật Việt Nam có thể là cá nhân, tổ chức Việt Nam hoặc cá nhân,

tổ chức nước ngoài; có nơi cư trú hoặc trụ sở ở Việt Nam hoặc nước ngoài. Nghĩa là,

theo quy định của Luật Thương mại, hoạt động mua bán hàng hóa được coi là

MBHHQT không phụ thuộc vào nơi cư trú, trụ sở hay quốc tịch. Luật Thương mại lấy

tiêu chí vận chuyển hàng hóa qua biên giới để xác định quan hệ mua bán hàng hóa là

MBHHQT.

Mặt khác, Điều 758 Bộ luật dân sự quy định: “Quan hệ dân sự có yếu tố nước

ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá

nhân nước ngoài hoặc là quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức

Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước

ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”.

Như vậy, khái niệm “MBHHQT” với tư cách là hoạt động thương mại hoặc quan hệ

thương mại theo khoản 1 Điều 27 Luật Thương mại có phạm vi hẹp hơn so với “mua

bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài” xuất phát từ khái niệm “quan hệ dân sự có yếu tố

nước ngoài” theo Điều 758 Bộ luật dân sự. Căn cứ quy định về quan hệ dân sự có yếu

tố nước ngoài tại Điều 758 Bộ luật dân sự, chúng ta có thể xác định các dấu hiệu của

quan hệ MBHHQT hay có “yếu tố nước ngoài” như sau:

- Ít nhất một trong các bên tham gia mua bán hàng hóa là cơ quan, tổ chức, cá

nhân nước ngoài;

- Các bên tham gia quan hệ mua bán hàng hóa là công dân, tổ chức Việt Nam

nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ này theo pháp luật nước ngoài;

- Hàng hóa – đối tượng mua bán ở nước ngoài.

Trong khi đó, MBHHQT theo Luật Thương mại chỉ căn cứ vào tiêu chí duy

nhất là hàng hóa được vận chuyển qua biên giới [5, tr.5]. Tuy nhiên, theo khoản 3

Điều 4 Luật Thương mại, “hoạt động thương mại không được quy định trong Luật

Thương mại và trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự” nên việc

Page 30: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

25

xác định hợp đồng MBHHQT cần vận dụng cả khoản 1 Điều 27 Luật Thương mại và

Điều 758 Bộ luật dân sự.

Từ nhận thức trên, có thể đưa ra khái niệm về hợp đồng MBHHQT như sau:

Hợp đồng MBHHQT là hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất quốc tế hay có yếu

tố nước ngoài, theo đó một bên (người bán) có nghĩa vụ giao hàng, chứng từ liên quan

hàng hóa và quyền sở hữu về hàng hóa cho bên kia (người mua) và người mua có

nghĩa vụ thanh toán tiền hàng và nhận hàng.

2.1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

2.1.2.1. Hợp đồng MBHHQT là hợp đồng thương mại có tính quốc tế hay có

yếu tố nước ngoài

Hợp đồng MBHHQT là một giao dịch có nhiều bên tham gia để tạo lập sự ràng

buộc pháp lý với nhau dựa trên sự cam kết, thỏa thuận, tức là tạo ra các quyền và

nghĩa vụ mới, ngoài những quyền và nghĩa vụ luật định, hoặc làm thay đổi hay chấm

dứt các quyền, nghĩa vụ ấy. Mặc dù trong luật thực định và thậm chí trong lý luận có

nhiều cách hiểu khác nhau về hợp đồng MBHHQT nhưng chung quy lại, tất cả các

cách hiểu khác nhau đó đều nhất quán ở điểm lấy trụ sở thương mại ở các quốc gia

khác nhau hay sự di chuyển hàng hóa qua biên giới quốc gia là tiêu chí xác định tính

chất quốc tế hay yếu tố nước ngoài hay tính chất quốc tế của hợp đồng MBHHQT [31,

tr.75; 58].

Chính tính chất quốc tế hay yếu tố nước ngoài của hợp đồng MBHHQT đã tạo

ra điểm khác biệt của hợp đồng MBHHQT so với hợp đồng thương mại trong nước, cụ

thể:

- Chủ thể của hợp đồng MBHHQT là các bên có trụ sở thương mại đặt ở các

nước khác nhau và/hoặc mang quốc tịch khác nhau. Điều đó có nghĩa, bên bán, bên

mua phải có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau chứ không phải đóng trong

phạm vi một nước. Nếu bên mua và bên bán đều có trụ sở thương mại ở cùng một

nước mà ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa với nhau thì đó là hợp đồng mua bán

hàng hóa trong nước. Nếu một bên có hơn một trụ sở thương mại thì sẽ tính đến trụ sở

thương mại có mối liên hệ chặt chẽ nhất đối với hợp đồng và đối với việc thực hiện

hợp đồng đó; Nếu một bên không có trụ sở thương mại thì sẽ lấy nơi cư trú thường

xuyên của họ [11, Điều 10].

Page 31: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

26

- Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng có thể được chuyển qua biên giới nước

người bán sang nước người mua hoặc sang nước thứ ba. Vì hợp đồng MBHHQT được

ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau nên trong đa số các

trường hợp hàng hóa được chuyển từ nước người bán sang nước người mua hoặc từ

nước người bán sang nước thứ ba (trong trường hợp người mua hàng xuất hàng sang

nước thứ ba) [26, tr.204]. Song cũng có trường hợp hàng hóa không chuyển qua biên

giới nước người bán. Chẳng hạn, một Công ty Hàn Quốc đóng trụ sở thương mại tại

Xơ Un, Hàn Quốc ký kết hợp đồng gia công quốc tế với một Công ty may của Việt

Nam đóng trụ sở tại Hà Nội. Công ty Hàn Quốc cung cấp nguyên vật liệu và nhận sản

phẩm gia công. Để thực hiện được hợp đồng này, công ty Hàn Quốc ký kết hợp đồng

mua vải của công ty dệt Vĩnh Phú có trụ sở thương mại tại Vĩnh Phú. Địa điểm giao

hàng tại Hà Nội, người nhận hàng là Công ty may đóng trụ sở thương mại tại Hà Nội,

có nghĩa vụ gia công áo giao cho Công ty Hàn Quốc. Như vậy, vải là đối tượng của

hợp đồng mua bán giữa công ty Hàn Quốc đóng trụ sở thương mại tại Hàn Quốc với

Công ty dệt đóng trụ sở tại Việt Nam, không chuyển qua biên giới Việt Nam (nước

người bán).

- Đồng tiền dùng để thanh toán giữa người bán và người mua có thể là ngoại tệ

đối với một trong hai bên. Nếu như trong các hợp đồng mua bán trong nước, đồng tiền

thanh toán phải là đồng Việt Nam (có thể dùng USD hay Euro như đồng tiền tính toán

mà thôi) thì trong hợp đồng MBHHQT, các bên được tự do lựa chọn đồng tiền thanh

toán, đó có thể là đồng tiền của nước người bán, của nước người mua hay của nước

thứ ba. Nhìn chung, các bên thường lựa chọn các đồng tiền mạnh có thể tự do chuyển

đổi như USD, Euro, DM, Yên Nhật, Bảng Anh… (ngoại lệ: các hợp đồng ký giữa các

thương nhân EU thì đồng tiền thanh toán Euro sẽ là đồng tiền chung cho cả hai bên và

không là ngoại tệ đối với bên nào).

- Cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng MBHHQT có thể là Tòa

án hoặc Trọng tài nước ngoài đối với một hoặc cả hai bên. Ví dụ, hợp đồng mua bán

hàng hóa giữa một công ty của Trung Quốc đóng trụ sở thương mại ở Trung Quốc với

một công ty của Đức đóng trụ sở thương mại tại Đức, trong hợp đồng quy định nếu có

tranh chấp phát sinh thì giải quyết bằng thương lượng, nếu không thương lượng được

thì kiện ra Tòa thương mại Beclin. Như vậy, Tòa thương mại Beclin là cơ quan giải

quyết tranh chấp và cũng là Tòa án nước ngoài đối với công ty của Trung Quốc.

Page 32: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

27

Bên cạnh đó, tính chất quốc tế của hợp đồng MBHHQT có thể dẫn đến khả

năng tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan giải quyết tranh chấp đối với những

tranh chấp phát sinh từ hoặc có liên quan đến hợp đồng MBHHQT - tranh chấp có yếu

tố nước ngoài [45, tr.226].

- Pháp luật điều chỉnh hợp đồng MBHHQT có thể là pháp luật nước ngoài đối

với một hoặc cả hai bên. Chẳng hạn, nếu áp dụng pháp luật Việt Nam điều chỉnh hợp

đồng mua bán giữa công ty Việt Nam và công ty của Singapore thì pháp luật Việt Nam

là pháp luật nước ngoài đối với công ty Singapore. Nếu hai bên thỏa thuận dùng pháp

luật của Pháp để điều chỉnh hợp đồng này thì pháp luật của Pháp là pháp luật nước

ngoài đối với cả hai bên. Ngoài ra, nguồn luật điều chỉnh hợp đồng MBHHQT cũng rất

đa dạng và phức tạp bao gồm không chỉ pháp luật nước ngoài đối với một trong hoặc

cả hai bên mà còn điều ước thương mại quốc tế, tập quán thương mại quốc tế và thậm

chí là án lệ (tiền lệ xét xử).

2.1.2.2. Mục đích của hợp đồng MBHHQT là sinh lợi

Hợp đồng MBHHQT là sự thỏa thuận giữa các bên để thực hiện một hoạt động

thương mại. Xét về nội dung, sự thỏa thuận trong hoạt động thương mại được thể hiện

dưới hình thức pháp lý là hợp đồng thương mại không chỉ là sự nhất trí, đồng ý chung

chung mà còn phải có nội dung cụ thể, mục đích rõ ràng, tức phải xác định được bản

chất quan hệ hợp đồng mà các bên muốn xác lập [19, tr.120].

Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó người bán chuyển giao

hàng hóa và quyền sở hữu đối với hàng hóa cho người mua và người mua nhận hàng

và trả tiền. Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng MBHHQT mà các bên giao kết hợp

đồng này hướng tới. Vì thế, mục đích của các bên trong hợp đồng MBHHQT cũng gắn

liền với mục đích mua hàng để sinh lợi của các bên.

Các bên giao kết hợp đồng MBHHQT chính là các thương nhân, tức là chủ thể

tiến hành hoạt động thương mại. Vì vậy, có thể nói, mục đích mua hàng của người bán

cũng như người mua, dù được mô tả trực tiếp hay gián tiếp, thì đó cũng là nhằm sinh

lợi từ việc chuyển giao hàng, quyền sở hữu đối với hàng và thanh toán [12, tr.68].

Người mua có thể mua hàng để bán lại hay để sản xuất nhằm sinh lợi, người bán,

đương nhiên, muốn bán hàng để nhận tiền (sinh lợi). Khi thiết lập một hợp đồng

MBHHQT, người bán và người mua luôn hướng đến việc tạo lập “sự ràng buộc pháp

Page 33: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

28

lý” đối với nhau và trông đợi bên kia cùng thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng,

nhằm thỏa mãn lợi ích của các bên [26, tr.142].

Tóm lại, mục đích trong hợp đồng MBHHQT được tạo nên bởi sự thỏa thuận

của các bên có thể khác nhau tùy vào quan hệ, động cơ giao kết hợp đồng của các bên.

Tuy nhiên, là hình thức pháp lý để thực hiện hoạt động thương mại nói chung, hoạt

động mua bán hàng hóa nói riêng nên về mặt bản chất có thể thấy được các bên thống

nhất với nhau ý chí rằng mục đích các bên giao kết hợp đồng MBHHQT là nhằm tìm

kiếm lợi nhuận và các lợi ích kinh tế khác. Điều này tạo nên bản chất của hợp đồng

MBHHQT, khác với các loại hợp đồng khác, và là yếu tố cơ bản cho sự tồn tại của

hợp đồng MBHHQT. Hợp đồng MBHHQT chỉ có thể được thiết lập vì lợi ích kinh tế

mà các bên hướng tới từ hợp đồng này và cũng vì lợi ích kinh tế mà các bên thực hiện

hợp đồng. Nói cách khác, không có lợi ích kinh tế sẽ không có sự giao kết và thực hiện

hợp đồng MBHHQT.

2.2. Vi phạm cơ bản hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: khái niệm và đặc điểm

Khi hợp đồng MBHHQT đã được giao kết hợp pháp thì nó có giá trị bắt buộc

thi hành đối với các bên tham gia xác lập và thực hiện hợp đồng. Sự ràng buộc pháp lý

và lợi ích kinh tế của các bên sẽ bị ảnh hưởng ở mức độ khác nhau khi quyền và nghĩa

vụ do các bên tạo ra không được tuân thủ thực hiện bởi một trong các bên xác lập và

thực hiện hợp đồng. Nội dung sau đây làm rõ khái niệm và đặc điểm vi phạm cơ bản

hợp đồng MBHHQT.

2.2.1. Khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Vi phạm cơ bản hợp đồng nói chung, vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT nói

riêng là một dạng vi phạm hợp đồng nhưng không phải vi phạm hợp đồng nào cũng là

vi phạm cơ bản hợp đồng. Vì vậy, có thể nói, khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng nói

chung, vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT nói riêng được xem xét ở hai khía cạnh:

(i) vi phạm hợp đồng; (ii) tính cơ bản của vi phạm hợp đồng.

2.2.1.1. Vi phạm hợp đồng

(a) Khái niệm vi phạm hợp đồng

Trong khoa học pháp lý, lý thuyết về vi phạm hợp đồng đã ra đời và tồn tại lâu

dài trong tất cả các hệ thống pháp luật trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Theo nghĩa thông thường, vi phạm là “không tuân theo hoặc làm trái những

điều quy định” [52, tr.1466]. Vì thế, vi phạm hợp đồng có thể hiểu là không tuân theo

Page 34: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

29

hoặc làm trái những gì các bên đã thỏa thuận, thống nhất ý chí với nhau. Theo Từ

điển Black’Law (phiên bản lần thứ 9), vi phạm hợp đồng là vi phạm các nghĩa vụ hợp

đồng bằng việc không thực hiện lời hứa của ai đó, từ chối thực hiện hoặc ngăn cản

việc thực hiện của bên kia [91, tr.213].

Về phương diện học thuật, trên thế giới có khá nhiều học giả đưa ra khái niệm

về vi phạm hợp đồng. Chẳng hạn, theo Giáo sư Treitel, vi phạm hợp đồng xảy ra khi

một bên không hoặc từ chối thực hiện những gì anh ta có nghĩa vụ thực hiện theo hợp

đồng mà không có lý do hợp pháp hoặc thực hiện không đúng hoặc không có khả

năng thực hiện [106, tr.389]. Như vậy, theo cách hiểu về vi phạm hợp đồng này,

trong mọi trường hợp việc không thực hiện những gì đã cam kết, “đã hứa” chỉ bị xem

là vi phạm khi “không có lý do hợp pháp”. Hay, vi phạm hợp đồng xảy ra nếu một

bên giao kết hợp đồng thiếu sót trong việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng [150, tr.235].

Với khái niệm này thì chỉ đơn thuần là sự “thiếu sót”, dù là mức độ nhỏ hay lớn, đều

cấu thành “vi phạm hợp đồng”. Tương tự, tác giả David Kelly cho rằng “vi phạm hợp

đồng xảy ra khi một trong các bên tham gia hợp đồng không thực hiện, hoàn toàn

hoặc thỏa đáng, nghĩa vụ hợp đồng. Một vi phạm hợp đồng có thể xảy ra dưới 3 dạng:

(1) Khi một bên, trước thời hạn thực hiện hợp đồng, tuyên bố rằng họ sẽ không thực

hiện nghĩa vụ hợp đồng (vi phạm trước thời hạn); (2) khi một bên không thực hiện

nghĩa vụ hợp đồng; (3) khi một bên thực hiện không đúng (có khiếm khuyết) nghĩa vụ

hợp đồng”[103, tr.182]. Tác giả Dương Anh Sơn cho rằng “hành vi vi phạm hợp đồng

là những biểu hiện khách quan dưới dạng hành động hoặc không hành động trái với

các nội dung mà các bên đã thỏa thuận” [60, tr.34] hay tác giả Phạm Duy Nghĩa cho

rằng “vi phạm hợp đồng là hành vi của một bên không thực hiện hoặc không thực hiện

đúng nghĩa vụ theo các điều kiện hợp đồng” [47, tr.373].

Vi phạm hợp đồng là thuật ngữ được nhắc đến và sử dụng khá nhiều trong quy

định pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới nhưng khái niệm về vi phạm hợp đồng

lại không được định nghĩa trực tiếp trong các đạo luật của các quốc gia này mà thay

vào đó pháp luật của nhiều quốc gia quy định các dạng vi phạm hợp đồng.

- Bộ luật dân sự năm 2002 của Đức điều chỉnh tương đối cụ thể hai dạng vi

phạm nghĩa vụ hợp đồng, đó là loại vi phạm dưới hình thức “chậm thực hiện nghĩa vụ”

và “không thể thực hiện được nghĩa vụ” hay “không có khả năng thực hiện nghĩa vụ”.

Page 35: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

30

Bộ luật dân sự năm 1804 của Pháp coi chậm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng và không

thực hiện nghĩa vụ hợp đồng là vi phạm hợp đồng.

- Điều 11(5) Luật mua bán hàng hóa năm 1979 của Anh quy định “Ở Scotland,

người bán không thực hiện bất kỳ phần quan trọng nào của hợp đồng mua bán là vi

phạm hợp đồng…”. Quy định này cho thấy nội hàm của vi phạm hợp đồng khá hẹp vì

luật chỉ thừa nhận không thực hiện phần quan trọng của hợp đồng mua bán mới xem là

vi phạm hợp đồng.

- Điều 1-201(b)(17) Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ năm 1952 không

đưa ra khái niệm vi phạm nhưng quy định “lỗi là khiếm khuyết, vi phạm hay hành

động sai trái hoặc không làm đầy đủ”. Từ quy định này có thể hiểu vi phạm là lỗi, là

sự khiếm khuyết hay hành động sai trái hay không làm đầy đủ.

- Vi phạm hợp đồng theo Luật hợp đồng Trung Quốc năm 1999 có thể hiểu

thông qua quy định tại Điều 107, cụ thể: “nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ theo

hợp đồng hoặc thực hiện không phù hợp thì phải chịu trách nhiệm do vi phạm hợp

đồng”. Như vậy, vi phạm hợp đồng theo Luật hợp đồng Trung Quốc bao gồm không

thực hiện hoặc thực hiện không phù hợp (không đúng) nghĩa vụ hợp đồng.

Dù được định nghĩa, giải thích theo các cách khác nhau nhưng nhìn chung cách

hiểu về vi phạm hợp đồng của pháp luật một số quốc gia là việc không thực hiện hoặc

thực hiện không đúng nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Điều này

cũng phù hợp với khái niệm về vi phạm hợp đồng cũng được quy định trong điểm d

khoản 3 Điều 1 Công ước về thời hiệu MBHHQT năm 1974, theo đó “vi phạm hợp

đồng là việc không thực hiện hợp đồng hoặc bất kỳ sự thực hiện nào mà không phù

hợp với hợp đồng”.

Với vai trò là luật quốc tế thống nhất về hợp đồng MBHHQT và dung hòa các

hệ thống pháp luật khác nhau, các nhà soạn thảo Công ước Viên không tiếp cận khái

niệm vi phạm hợp đồng dựa trên sự phân loại vi phạm nghĩa vụ hợp đồng như pháp

luật một số quốc gia nói trên, mà thay vào đó họ tiếp cận khái niệm vi phạm hợp đồng

dưới góc độ chung nhất. Mặc dù không đưa ra định nghĩa, Công ước Viên tiếp cận

khái niệm “vi phạm hợp đồng” theo nghĩa rộng nhất, bao gồm tất cả các hành vi không

tuân thủ quy định của hợp đồng như không thực hiện nghĩa vụ, chậm thực hiện nghĩa

vụ, thực hiện nghĩa vụ không đầy đủ hoặc không phù hợp mà không phân biệt đó là

nghĩa vụ chính hay phụ, kể cả những trường hợp được miễn trách nhiệm [94, tr.18].

Page 36: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

31

Trong một số trường hợp, Công ước Viên sử dụng thuật ngữ “không thực hiện nghĩa

vụ hợp đồng” theo nghĩa tương đương với thuật ngữ “vi phạm hợp đồng” [11, Điều 79,

80].

Nghĩa vụ của người bán và người mua trong hợp đồng MBHHQT không chỉ

phát sinh từ thỏa thuận của các bên trong hợp đồng mà còn từ những quy định của

Công ước Viên nếu thuộc các trường hợp áp dụng Công ước quy định tại Điều 1 Công

ước. Các nghĩa vụ của người bán và người mua có thể phát sinh từ tập quán mà các

bên đã thỏa thuận hoặc thói quen mà các bên đã thiết lập với nhau [11, khoản 1 Điều

9]. Công ước Viên nhấn mạnh rằng, trừ trường hợp các bên trong hợp đồng MBHHQT

có thỏa thuận khác, các bên được coi là ngụ ý áp dụng trong hợp đồng hoặc trong việc

giao kết hợp đồng một tập quán mà các bên đã biết hoặc phải biết và được biết đến

phổ biến trong thương mại quốc tế và được các bên áp dụng một cách thường xuyên

đối với các hợp đồng cùng chủng loại trong lĩnh vực thương mại cụ thể liên quan [11,

khoản 2 Điều 9]. Bên cạnh đó, khi Công ước Viên được áp dụng để điều chỉnh quan hệ

hợp đồng MBHHQT giữa các bên, nghĩa vụ giữa các bên còn có thể được xác định

theo các quy tắc của Công ước. Chẳng hạn, khi xác định ý chí của một bên cần phải

tính đến mọi tình tiết liên quan, kể cả các cuộc đàm phán, mọi thói quen mà các bên đã

thiết lập với nhau, các tập quán và mọi hành vi sau đó của các bên [11, khoản 3 Điều

8].

Như vậy, có thể thấy, nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng theo Công ước Viên

được xác lập ở 3 cấp: (i) nghĩa vụ dựa trên sự thống nhất ý chí thể hiện ở các điều

khoản trong hợp đồng mua bán hàng hoá có liên quan, (ii) nghĩa vụ dựa trên các thói

quen hình thành trước đó và ngụ ý áp dụng tập quán thương mại quốc tế; và (iii) nghĩa

vụ được xác định theo các quy tắc của Công ước Viên. Bất cứ khi nào Công ước Viên

là luật điều chỉnh của hợp đồng, Công ước luôn luôn tuân thủ thứ tự áp dụng hai cấp

độ đầu tiên của cấu trúc [127]. Tất nhiên, nếu các bên quả quyết loại bỏ (hoàn toàn)

việc áp dụng Công ước Viên, tức là họ sẽ không tuân thủ các điều khoản dẫn tới áp

dụng Công ước một cách tự động [11, Điều 6]. Khi đó, Công ước sẽ không ảnh hưởng

gì đến các hợp đồng mua bán hàng hoá giữa họ.

Do đó, vi phạm hợp đồng theo quy định cùa Công ước Viên được hiểu là việc

không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, bao gồm cả những

nghĩa vụ được quy định rõ ràng trong hợp đồng mua bán và cả việc một trong hai bên

Page 37: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

32

không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ nào đó của họ phát sinh

từ các tập quán mà các bên đã thỏa thuận và từ các thực ti n đã được các bên thiết

lập trong mối quan hệ tương hỗ giữa họ và từ quy định của chính Công ước Viên.

Hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm có thể là vi phạm thực tế hoặc vi phạm dự

đoán trước. Hành vi vi phạm thực tế có thể là người bán không giao hàng, không giao

chứng từ liên quan đến hàng hóa, giao hàng không phù hợp (về số lượng, về chất

lượng…) với hợp đồng và Công ước hoặc người mua không thanh toán tiền hàng,

không nhận hàng theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng và của Công ước. Những hành

vi vi phạm này đã xảy ra trong thực tế và gây hoặc có khả năng gây ra những hậu quả

pháp lý nhất định đối với bên bị vi phạm.

Trong luật thực định của Việt Nam, trước năm 2005, khái niệm “vi phạm hợp

đồng” chưa được định nghĩa ở bất cứ văn bản quy phạm pháp luật nào. Thậm chí,

Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp điều

chỉnh hợp đồng kinh tế, cũng không đưa ra định nghĩa về vi phạm hợp đồng. Tuy

nhiên, từ quy định tại khoản 1 Điều 29 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 có thể

hiểu vi phạm hợp đồng là việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng

kinh tế [50, khoản 1 Điều 29].

Đến năm 2005, khi Luật Thương mại ra đời, các nhà làm luật đã định nghĩa vi

phạm hợp đồng tại khoản 12 Điều 3, theo đó vi phạm hợp đồng là việc một bên không

thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa

thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật Thương mại. Với quy định này, “vi

phạm” được hiểu là “không thực hiện”, “thực hiện không đầy đủ” hoặc “thực hiện

không đúng”. Khoản 1 Điều 302 Bộ luật dân sự không sử dụng thuật ngữ “vi phạm

hợp đồng” mà thay vào đó là “trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự”, trong

đó đề cập đến “không thực hiện” hoặc “thực hiện không đúng” nghĩa vụ của người có

nghĩa vụ.

Bằng dấu “phẩy” ở giữa các cụm từ “không thực hiện, thực hiện không đầy đủ

hoặc thực hiện không đúng” có thể hiểu theo các nghĩa sau:

- Vi phạm hợp đồng bao gồm không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, trong đó

thực hiện không đầy đủ là một sự giải thích, làm rõ thêm của không thực hiện hợp

đồng. Với cách hiểu này, Luật Thương mại quy định phạm vi vi phạm hợp đồng rộng

hơn Bộ luật dân sự khi xem “thực hiện không đầy đủ” là một dạng cụ thể của không

Page 38: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

33

thực hiện hợp đồng. Quy định của Luật Thương mại là khá phù hợp với xu hướng quy

định của một số văn bản quốc tế.

Trong PICC và PECL, thuật ngữ “vi phạm hợp đồng” không xuất hiện mà thay

vào đó là “không thực hiện hợp đồng”. Điều 7.1.1 PICC quy định: “Không thực hiện

hợp đồng là việc một bên không thực hiện một nghĩa vụ nào đó phát sinh từ hợp đồng,

kể cả việc thực hiện hợp đồng không đúng hay chậm tr ”. Điều 1.301 PECL quy định:

“Không thực hiện hợp đồng có nghĩa là việc không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng,

bao gồm thực hiện chậm, thực hiện không đúng và không hợp tác để làm cho hợp đồng

có hiệu lực”. Như vậy, không thực hiện hợp đồng là một thuật ngữ có nội hàm rộng

chứa trong nó các hình thức thực hiện không đầy đủ hợp đồng, không đúng hợp đồng.

- Vi phạm nghĩa vụ hợp đồng bao gồm không thực hiện và thực hiện không

đầy đủ hoặc thực hiện không đúng. Cách hiểu này thì không thực sự thuyết phục bởi

“không thực hiện” có thể bao gồm trong đó “thực hiện không đầy đủ” như cách hiểu

của một số văn bản quốc tế nhưng nó không thể và không bao giờ “song hành” cùng

thực hiện không đầy đủ. Không thực hiện một hành vi nhất định thì không thể có cơ

sở xác định hành vi đó có được thực hiện là đầy đủ hay không đầy đủ bởi ngay từ đầu

đã không xảy ra việc thực hiện hành vi đó.

Vì vậy, để tránh nhầm lẫn và tạo thuận lợi trong cách hiểu về “vi phạm hợp

đồng” theo Luật Thương mại, người viết kiến nghị bỏ thuật ngữ “thực hiện không đầy

đủ” để có sự thống nhất với Bộ luật dân sự. Ở đây, thuật ngữ “thực hiện không đầy

đủ” là thừa và không cần thiết bởi vì thực hiện không đầy đủ cũng chính là thực hiện

không đúng như giao hàng thiếu, thanh toán thiếu, đơn giản, cũng chính là việc thực

hiện không đúng số hàng cam kết giao, số tiền cam kết thanh toán. Ví dụ, các bên ký

hợp đồng MBHHQT, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao cho bên mua 500 bộ ghế văn

phòng nhưng bên bán chỉ giao 450 bộ. Rõ ràng, người bán đã giao không đúng số

lượng hàng theo thỏa thuận hợp đồng hay cũng chính là thực hiện giao không đầy đủ

số lượng 500 bộ ghế văn phòng.

Như vậy, các quy định trên cho thấy các bên phải thực hiện đúng hợp đồng, trái

lại không thực hiện hoặc thực hiện không đúng [41, tr.61], tức là vi phạm hợp đồng.

Tuy nhiên, ở đây, yếu tố hợp đồng không chỉ bao gồm “thỏa thuận, cam kết” của các

bên xác lập và thực hiện hợp đồng mà còn “thói quen trong hoạt động thương mại đã

được thiết lập giữa các bên mà các bên đã biết hoặc phải biết” [40, Điều 12], quy định

Page 39: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

34

của pháp luật điều chỉnh hợp đồng và “tập quán thương mại” [40, Điều 13] bởi có rất

nhiều vấn đề pháp luật quy định gắn liền với hợp đồng nên thực hiện các quy định này

thực chất cũng là thực hiện hợp đồng và ngược lại, vi phạm các quy định này thực chất

cũng là vi phạm hợp đồng.

Từ nhận thức trên, tác giả xin đưa ra khái niệm vi phạm hợp đồng như sau:

Vi phạm hợp đồng là việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ

hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận, theo thói quen trong thương mại giữa các bên,

pháp luật điều chỉnh hợp đồng hoặc tập quán thương mại quy định.

(b) Đặc điểm của vi phạm hợp đồng

- Vi phạm hợp đồng là hành vi vi phạm “luật” giữa các bên

Hợp đồng được giao kết hợp pháp thì “có hiệu lực như pháp luật”, nhưng “là

pháp luật của các bên” [1, tr.7]. Có nghĩa, hiệu lực của hợp đồng là tạo ra quyền và

nghĩa vụ “riêng” cho các bên chứ không có hiệu lực bắt buộc chung như pháp luật [16,

tr.43]. Nói cách khác, hợp đồng như các quy phạm tư nhân được tạo ra từ “ý chí của tư

nhân” [39, tr.244] để ràng buộc chỉ đối với các bên tham gia hợp đồng đó mà thôi.

Sở dĩ nói hợp đồng có giá trị như luật đối với các bên là nói đến việc thỏa thuận

trong hợp đồng giữa các bên đã tạo ra quyền và nghĩa vụ để ràng buộc giữa họ với

nhau, và các bên cũng bị buộc phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó giống như các

quyền và nghĩa vụ luật định. Như vậy, tuy các bên tham gia hợp đồng không phải là

những người có thẩm quyền sáng tạo luật (ví dụ như nhà lập pháp trong các nước theo

luật thành văn, hoặc Tòa án trong các nước theo luật án lệ), nhưng lại có thể tự nguyện

thỏa thuận làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý để ràng buộc lẫn nhau [44, tr.256].

Các quyền và nghĩa vụ này được pháp luật thừa nhận và bảo đảm thực hiện bằng các

biện pháp cưỡng chế mang tính pháp lý. Theo đó, hành vi của các bên vi phạm nghĩa

vụ trong hợp đồng cũng bị coi là hành vi trái pháp luật, và có thể bị buộc phải chịu

trách nhiệm pháp lý với những chế tài thích hợp.

Giá trị pháp lý giống như luật của hợp đồng còn được thể hiện ở chỗ nó đã tạo

ra sự ràng buộc mang tính pháp lý đối với các bên tham gia, nhằm buộc các bên tham

gia phải nghiêm túc thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng [154,

tr.116]. Nội dung này đòi hỏi các bên phải tôn trọng và thực hiện đúng những gì mà

các bên đã cam kết trong hợp đồng một cách trung thực, thiện chí [39, tr.42]. Kể từ khi

hợp đồng phát sinh hiệu lực, các bên không được từ chối thực hiện hợp đồng, không

Page 40: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

35

được rút lại những gì đã cam kết, và tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc

thực hiện không đúng nghĩa vụ, nếu không tự nguyện thực hiện thì có thể bị cưỡng chế

thực hiện theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở có sự bảo đảm của pháp luật, bên có

quyền được yêu cầu và bên có nghĩa vụ phải nghiêm chỉnh thực thi các nghĩa vụ của

mình trong hợp đồng và theo đúng các yêu cầu của nguyên tắc thiện chí, hợp tác và

ngay thẳng: “hợp đồng được lập hợp pháp thì phải được các bên thực hiện nghiêm

chỉnh và ngay tình” [16, tr.77].

- Hành vi vi phạm hợp đồng có thể xảy ra trước thời hạn (vi phạm dự đoán

trước) hoặc khi hết thời hạn thực hiện hợp đồng (vi phạm thực tế)

Trong hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận nghĩa vụ hợp đồng được thực hiện

vào một thời điểm cụ thể hoặc khoảng thời gian nhất định. Khi đến hạn thực hiện hợp

đồng, một trong các bên có thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ

hợp đồng, tức là vi phạm hợp đồng trên thực tế. Tuy nhiên, trường hợp chưa đến hạn

thực hiện hợp đồng nhưng một bên có đủ cơ sở, chứng cứ rõ ràng để chứng minh rằng

bên kia sẽ không thực hiện hợp đồng hoặc các hành động của một bên làm cho bên kia

mất niềm tin vào việc bên kia sẽ thực hiện hợp đồng và kết luận sẽ có một sự vi phạm

hợp đồng trong tương lai. Đây là trường hợp một bên dự đoán trước vi phạm hợp đồng

của bên kia để có giải pháp xử lý nhằm đảm bảo quyền lợi của mình chứ không thể

ngồi chờ cho bên kia vi phạm thực tế mới có giải pháp cụ thể.

- Vi phạm hợp đồng là căn cứ để xác định trách nhiệm hợp đồng của bên vi

phạm

Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng do các bên thỏa thuận hoặc áp dụng theo

quy định pháp luật. Dù là theo cách thức nào thì bên bị vi phạm chỉ có thể quy trách

nhiệm cho bên vi phạm khi tồn tại vi phạm hợp đồng. Trách nhiệm phát sinh trên cơ sở

nghĩa vụ do các bên xác lập thông qua thỏa thuận, qua thói quen giữa các bên, tập

quán thương mại hoặc pháp luật quy định. Vi phạm nghĩa vụ hợp đồng kéo theo trách

nhiệm của bên vi phạm.

Khi có vi phạm hợp đồng, pháp luật quy định các bên có quyền áp dụng nhiều

chế tài khác nhau nhằm đưa các bên trở lại vị trí ban đầu khi chưa xảy ra vi phạm hợp

đồng. Các chế tài đó có thể là chế tài mang lại hậu quả pháp lý không nặng nề cho bên

vi phạm, vẫn duy trì quan hệ hợp đồng mà các bên đã xác lập như buộc thực hiện đúng

hợp đồng, bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm; hoặc chế tài mang đến hậu quả pháp lý

Page 41: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

36

nặng nề cho bên vi phạm, các bên chấm dứt quan hệ hợp đồng (có thể tạm thời chấm

dứt) như: tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ

hợp đồng.

2.2.1.2. Tính cơ bản của vi phạm hợp đồng

Vi phạm cơ bản hợp đồng là vi phạm hợp đồng nhưng không phải vi phạm hợp

đồng nào cũng là vi phạm cơ bản hợp đồng. Yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa vi phạm

cơ bản hợp đồng với các loại vi phạm hợp đồng khác là tính cơ bản của hành vi vi

phạm.

Về mặt thuật ngữ, trong tiếng Việt, “cơ bản” nghĩa là “trọng yếu nhất” [52,

tr.1211] có thể sử dụng như một tính từ hoặc trạng từ. Vì vậy, khi ghép với “vi phạm”

ta có “vi phạm cơ bản” hay “vi phạm một cách trọng yếu nhất”. Đó có thể là vi phạm

với tính chất nghiêm trọng hoặc vi phạm những nội dung trọng yếu nhất. Theo Từ điển

Black’s Law (phiên bản thứ 9), tính chất cơ bản của hành vi vi phạm được thể hiện ở

chỗ vi phạm hợp đồng phải đủ nghiêm trọng để cho phép bên bị vi phạm xem vi phạm

này như là vi phạm toàn phần hơn là vi phạm từng phần, vì vậy miễn việc tiếp tục thực

hiện hợp đồng cho bên bị vi phạm và trao cho họ quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường

thiệt hại [91, tr.895].

Về phương diện khoa học pháp lý, có thể nói, vi phạm cơ bản hợp đồng đã trở

thành học thuyết trong khoa học pháp lý được hình thành từ học thuyết về tàu đi chệch

hướng trong vận chuyển hàng hóa bằng đường biển [131, tr.45]. Lý thuyết tàu đi chệch

hướng trong chuyên chở đường biển được xem như nguồn gốc của học thuyết vi phạm

cơ bản. Tàu đi chệch hướng được nêu ra trong vụ tranh chấp Joseph Thorley Ltd v.

Orchris Steamship Co., [1907] 1 K.B 660 (Eng.C.A): Tàu đi chệch hướng là vấn đề

nghiêm trọng làm thay đổi một cách cơ bản hành trình dự định đến mức chủ tàu điều

khiển tàu đi chệch hướng không được xem là đã thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng

chuyên chở mà thực hiện điều gì đó khác biệt một cách cơ bản, và vì thế chủ tàu không

thể đòi lợi ích từ những quy định có lợi cho anh ta trong hợp đồng chuyên chở.

Học thuyết vi phạm cơ bản hợp đồng đã được phát triển mạnh mẽ ở Anh trong

khoảng đầu những năm 60 [155, tr.182]. Học thuyết này phát biểu rằng, như một

nguyên tắc của pháp luật, nếu một bên vi phạm cơ bản hợp đồng thì anh ta không thể

dựa vào điều khoản miễn trừ để trốn tránh trách nhiệm do vi phạm hợp đồng [155,

tr.183]. Mục đích của sự tồn tại học thuyết về vi phạm cơ bản hợp đồng là nhằm đảm

Page 42: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

37

bảo bên vi phạm không thể viện dẫn điều khoản miễn trừ để từ bỏ trách nhiệm nếu vi

phạm hợp đồng của anh ta là vi phạm cơ bản hợp đồng bất kể đó là hợp đồng gì [96,

tr.143].

Đến nay, học thuyết vi phạm cơ bản đã được phát triển mạnh mẽ trong giới luật

học và trở thành quy định quan trọng trong pháp luật hợp đồng của Anh, Mỹ,

Canada… và được tiếp cập chủ yếu ở hai khía cạnh sau [155, tr.181]: (i) Vi phạm hợp

đồng có tính chất cơ bản nếu đó là vi phạm điều khoản cơ bản của hợp đồng hay vi

phạm nghĩa vụ chính/cốt lõi của hợp đồng; (ii) Dựa vào mức độ ảnh hưởng đáng kể,

nghiêm trọng của hành vi vi phạm hợp đồng đến mục đích, lợi ích kinh tế của một

trong các bên xác lập và thực hiện hợp đồng.

- Vi phạm hợp đồng có tính chất cơ bản nếu đó là vi phạm điều khoản cơ bản

của hợp đồng hay vi phạm nghĩa vụ chính/cốt lõi của hợp đồng

Nội dung của hợp đồng được cấu thành bởi các điều khoản cơ bản, điều khoản

tùy nghi và điều khoản thông thường [66, tr.99]. Tuy nhiên, điều khoản cơ bản của

hợp đồng là gì thì hiện nay còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau.

Về mặt thuật ngữ, điều khoản cơ bản của hợp đồng có thể hiểu là điều khoản

mà nếu một bên vi phạm điều khoản đó thì bên kia có quyền chấm dứt hoặc hủy bỏ

hợp đồng. Hay, điều khoản cơ bản là điều khoản trong hợp đồng và có tầm quan trọng

như hợp đồng, nếu bỏ qua nó sẽ làm cho hợp đồng vô hiệu [69]. Điều này có nghĩa là

nếu trong hợp đồng điều khoản cơ bản không được tuân thủ thực hiện thì hợp đồng

không có giá trị gì đối với bên bị vi phạm.

Về phương diện học thuật, điều khoản cơ bản hợp đồng cũng là chủ đề được

bàn luận bởi nhiều học giả. Chẳng hạn, theo tác giả Ogilvie, điều khoản cơ bản là điều

khoản “cốt lõi” của hợp đồng [137, tr.84; 130] hay nghĩa vụ chính/cốt lõi của hợp

đồng tạo thành điều khoản cơ bản của hợp đồng [122, tr.184]. Nói cách khác, cam kết

chủ yếu/cốt lõi của hợp đồng tạo thành điều khoản cơ bản của hợp đồng. Bên cạnh đó,

giáo trình Luật Dân sự Việt Nam (Tập 2) của Trường Đại học Luật Hà Nội xuất bản

năm 2005 có đoạn viết: “các điều khoản cơ bản xác định nội dung chủ yếu của hợp

đồng. Đó là những điều khoản không thể thiếu được đối với từng loại hợp đồng. Nếu

không thỏa thuận được những điều khoản đó thì hợp đồng không thể giao kết

được…Có những điều khoản đương nhiên là điều khoản cơ bản, vì không thỏa thuận

tới nó sẽ không thể hình thành hợp đồng. Ngoài ra, có những điều khoản mà vốn dĩ

Page 43: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

38

không phải là điều khoản cơ bản nhưng các bên thấy cần phải thỏa thuận được điều

khoản đó mới giao kết hợp đồng, thì những điều khoản này cũng là điều khoản cơ bản

của hợp đồng sẽ giao kết”. Tuy tồn tại nhiều quan điểm của nhiều học giả nhưng có

một điểm chung khi đề cập đến điều khoản cơ bản đó là: điều khoản cơ bản là những

điều khoản “cốt lõi” của hợp đồng, thiếu các điều khoản này các bên không giao kết

hợp đồng.

Trong pháp luật thực định của một số quốc gia cũng quy định về điều khoản cơ

bản hợp đồng. Chẳng hạn, khoản 3 Điều 11 Luật mua bán hàng hóa năm 1979 của Anh

quy định rằng “Trong từng trường hợp, tùy theo cấu trúc hợp đồng, một điều khoản có

thể là điều khoản cơ bản (tiếng Anh là “Condition term”) của hợp đồng nếu việc vi

phạm điều khoản đó sẽ dẫn tới quyền từ bỏ hợp đồng, hoặc có thể là điều khoản thứ

yếu (tiếng Anh là “Warranty term”) nếu việc vi phạm điều khoản đó sẽ dẫn đến quyền

yêu cầu bồi thường thiệt hại nhưng không có quyền từ bỏ hàng hóa và từ bỏ hợp đồng.

Một điều khoản có thể là cơ bản mặc dù nó được gọi là điều khoản thứ yếu trong hợp

đồng”. Quy định này chưa chỉ rõ được điều khoản nào trong hợp đồng là điều khoản

cơ bản bởi một điều khoản có thể là cơ bản, có thể là thứ yếu. Vấn đề là ở chỗ, vi

phạm điều khoản nào cho phép bên bị vi phạm quyền tử bỏ hợp đồng thì đó là điều

khoản cơ bản.

Thực tiễn áp dụng pháp luật tại Anh đã cho thấy, các thẩm phán của Anh đều cố

gắng giải thích khái niệm điều khoản cơ bản theo các cách khác nhau. Chẳng hạn, vào

năm 1953, Thẩm phán Devlin, J. đã cố gắng để đưa ra định nghĩa về điều khoản cơ

bản của hợp đồng, theo đó điều khoản cơ bản của hợp đồng “phải là điều gì đó, tôi

nghĩ, hẹp hơn điều kiện của hợp đồng…Nó là…một điều gì đó mà làm nền tảng cho cả

hợp đồng, vì thế nếu không tuân thủ điều khoản cơ bản của hợp đồng thì việc thực

hiện hợp đồng trở thành cái gì đó khác hoàn toàn với những gì dự định trong hợp

đồng” [252]. Điều khoản cơ bản của hợp đồng là quy định mà các bên thỏa thuận rõ

ràng hoặc ngụ ý hoặc quy định mà pháp luật xem như điều khoản thuộc về cốt lõi của

hợp đồng nhằm mục đích nếu vi phạm điều khoản đó thì bên bị vi phạm, ngay lập tức,

coi như vi phạm cơ bản hay cam kết quan trọng nhất tạo thành điều khoản cơ bản của

hợp đồng [156]. Tương tự, Thẩm phán Donaldson nhấn mạnh rằng “nghĩa vụ chủ

yếu/cốt lõi của hợp đồng cấu thành điều khoản cơ bản của hợp đồng” [249]. Ví dụ cổ

điển minh chứng cho kết luận này đó là tuyên bố của Thẩm phán Abinder: “Nếu người

Page 44: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

39

bán cam kết bán đậu Hà Lan nhưng giao đậu tương hoặc bất ngờ hơn nếu người bán

giao đá và gạch vụn. Việc giao hàng này của người bán đã vượt quá phạm vi của hợp

đồng, nói cách khác, người bán đã thực hiện ngoài giới hạn của hợp đồng và không

thực hiện hợp đồng chút nào. Vì thế, có sự khác biệt cơ bản giữa những gì các bên đã

thỏa thuận, cam kết thực hiện và những gì đã diễn ra trong thực tế. Người mua cam kết

nhận đậu Hà Lan và bởi vì đó là điều khoản cơ bản nên người mua không có nghĩa vụ

nhận đậu tương hay đá và gạch vụn”[185].

Mặc dù, có nhiều cách giải thích khác nhau, cả trong giới học thuật cũng như

pháp luật thực định nhưng nhìn chung điều khoản cơ bản của hợp đồng là nghĩa vụ

chính của hợp đồng mà các bên phải thực hiện, nếu vi phạm nghĩa vụ đó là vi phạm cơ

bản hợp đồng. Nghĩa vụ chính là những gì mà các bên giao kết để thực hiện, vì đó mà

các bên giao kết hợp đồng, thể hiện ý định của các bên. Vì vậy, khi có vi phạm nghĩa

vụ chính của hợp đồng, tức là một bên trong hợp đồng làm một điều gì đó khác biệt

một cách cơ bản so với những gì anh ta đã giao kết để thực hiện [184], cấu thành vi

phạm cơ bản hợp đồng.

PICC và PECL cũng tiếp cận tính cơ bản của vi phạm hợp đồng dựa vào điều

khoản cơ bản của hợp đồng khi quy định một căn cứ để xác định tính cơ bản của hành

vi vi phạm hợp đồng là “Không tuân thủ chặt chẽ những nghĩa vụ vốn là những yếu tố

quan trọng của hợp đồng” (Điều 7.3.1 PICC và Điều 8:103 PECL). Tuy nhiên, PICC

và PECL cũng không có quy định cụ thể về những nghĩa vụ nào là yếu tố quan trọng

của hợp đồng.

Cách tiếp cận tính chất cơ bản của vi phạm hợp đồng dựa trên vi phạm nghĩa vụ

chính/cốt lõi, vi phạm điều khoản cơ bản của hợp đồng như trên dẫn đến một số bất

cập sau:

- Không có cơ sở thống nhất để xác định nghĩa vụ chính/cốt lõi của các bên

trong hợp đồng là gì. Khi các bên thỏa thuận các nội dung trong hợp đồng, hợp đồng

được giao kết làm phát sinh nghĩa vụ hợp đồng. Nghĩa vụ hợp đồng nào là nghĩa vụ

chính, nghĩa vụ hợp đồng nào là nghĩa vụ phụ. Các bên phải thỏa thuận rõ ràng trong

hợp đồng hay cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phải xác định. Vi phạm

nghĩa vụ theo quy định pháp luật điều chỉnh hợp đồng là vi phạm nghĩa vụ chính hay

nghĩa vụ phụ.

Page 45: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

40

- Không xem xét đến hậu quả của sự vi phạm. Có những trường hợp vi phạm

nghĩa vụ hợp đồng, tuy không phải nghĩa vụ chính/cốt lõi hay không phải vi phạm điều

khoản cơ bản của hợp đồng nhưng vi phạm của bên vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng

cho bên bị vi phạm thì có bị coi là vi phạm cơ bản hợp đồng hay không? Hay, ngược

lại, vi phạm điều khoản cơ bản hợp đồng nhưng không gây hậu quả đáng kể, nghiêm

trọng cho bên bị vi phạm thì có bị coi là vi phạm cơ bản hợp đồng hay không?.

So sánh với pháp luật thực định của Việt Nam thì cách tiếp cận này không phù

hợp với pháp luật Việt Nam bởi pháp luật thực định của Việt Nam hiện nay không còn

sử dụng thuật ngữ điều khoản chủ yếu hay nội dung chủ yếu mà thay vào đó là chỉ gợi

ý một số nội dung có thể có trong hợp đồng. Điều 402 Bộ luật dân sự quy định “Tùy

theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận về những nội dung sau đây: 1. Đối

tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc không được làm; 2.

Số lượng, chất lượng; 3. Giá, phương thức thanh toán; 4. Thời hạn, địa điểm, phương

thức thực hiện hợp đồng; 5. Quyền, nghĩa vụ của các bên…”.

- Xác định tính cơ bản của hành vi vi phạm dựa vào mức độ ảnh hưởng đáng

kể, nghiêm trọng của hành vi vi phạm đến mục đích, lợi ích kinh tế của một trong các

bên xác lập và thực hiện hợp đồng.

Cách tiếp cận này khá phổ biến trong pháp luật Anh, Mỹ, Pháp khi xác định vi

phạm cơ bản hợp đồng. Chẳng hạn, pháp luật của Pháp coi một vi phạm là cơ bản khi

bên bị thiệt hại cho rằng nếu biết trước hậu quả nghiêm trọng do vi phạm hợp đồng họ

đã không ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, việc xem xét tính chất cơ bản của vi phạm hợp

đồng thay đổi theo từng trường hợp, nó hoàn toàn là cảm tính của mỗi bên và tùy

thuộc vào đánh giá của mỗi thẩm phán [49, tr.55].

Thực tiễn xét xử ở Anh cho thấy, ngoài việc dựa vào điều khoản cơ bản hợp

đồng để xác định tính chất cơ bản của vi phạm hợp đồng, tòa án còn dựa vào một số

tiêu chí sau: Khi vi phạm lấy đi đáng kể những gì bên bị vi phạm vì đó mà ký kết hợp

đồng [98]. Thẩm phán Diplock trong vụ Hongkong Fir [1962] 2 Q.B 26 đã tuyên rằng

“vi phạm cơ bản hợp đồng xảy ra khi xảy ra sự việc lấy đi của bên cam kết thực hiện

một cách đáng kể lợi ích mà các bên đã thể hiện trong hợp đồng”. Hay, trong vụ

Photo Productions v. Securicor Ltd. [1980] All E.R. 556, vi phạm cơ bản hợp đồng

xảy ra khi việc không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng của một bên lấy đi của bên kia một

cách đáng kể toàn bộ lợi ích của hợp đồng.

Page 46: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

41

Trong pháp luật Mỹ, cơ sở xác định tính chất cơ bản của hành vi vi phạm hợp

đồng được quy định tại Điều 241 Văn bản pháp điển hợp đồng (bản thứ hai) năm

1981, theo đó không thực hiện hợp đồng bị coi là vi phạm cơ bản hợp đồng căn cứ vào

các tình tiết sau: Quy mô lợi ích mong đợi hợp lý trên cơ sở hợp đồng mà bên bị vi

phạm bị lấy đi; Mức bồi thường mà bên bị vi phạm có thể yêu cầu để bù đắp phần lợi

ích đã bị mất đi; Mức độ mà bên không thực hiện hợp đồng hoặc không sẵn sàng thực

hiện hợp đồng sẽ phải gánh chịu mất mát; Khả năng bên không thực hiện hợp đồng

khắc phục được vi phạm hợp đồng, có tính đến tất cả các trường hợp bao gồm bất kỳ

sự bảo đảm hợp lý nào; Mức độ phù hợp của hành vi của bên không thực hiện hợp

đồng với các tiêu chuẩn thiện chí và kinh doanh công bằng.

Pháp luật thực định Việt Nam cũng có cách tiếp cận tương tự khi định nghĩa về

vi phạm cơ bản tại khoản 13 Điều 3 của Luật thương mại như sau: Vi phạm cơ bản là

sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia

không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng. Định nghĩa về vi phạm cơ bản

này chú trọng tới tính nghiêm trọng của hành vi vi phạm bằng việc xác định mối tương

quan giữa thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra và sự tồn mất mục đích của việc giao kết

hợp đồng của bên bị vi phạm.

Ở phạm vi quốc tế, Công ước Viên là văn bản pháp lý quốc tế duy nhất có định

nghĩa về vi phạm cơ bản hợp đồng tại Điều 25 Công ước Viên, theo đó vi phạm hợp

đồng do một bên gây ra là cơ bản nếu vi phạm đó gây tổn hại cho bên kia đến mức

tước đi đáng kể những gì bên kia có quyền kỳ vọng từ hợp đồng, trừ khi bên vi phạm

không tiên liệu được và một người có lý trí cũng không tiên liệu được hậu quả đó nếu

họ ở vào địa vị và hoàn cảnh tương tự. Điều 25 Công ước Viên cho thấy Công ước

Viên tiếp cận theo cách thứ hai, tức là dựa trên tính nghiêm trọng của hậu quả do hành

vi vi phạm gây ra trên cơ sở so sánh, đối chiếu với những gì bên bị vi phạm có quyền

kỳ vọng từ hợp đồng.

PICC và PECL cũng tiếp cận tính cơ bản của hành vi vi phạm hợp đồng tương

tự Công ước Viên. Khoản 2 Điều 7.3.1 PICC quy định một trong những căn cứ xác

định tính chất cơ bản của hợp đồng thương mại quốc tế là: Không thực hiện hợp đồng

tước đi đáng kể những gì bên bị vi phạm có quyền kỳ vọng từ hợp đồng, trừ khi bên vi

phạm không tiên liệu được hoặc không thể tiên liệu được một cách hợp lý hậu quả đó.

Điều 8:103 của PECL cũng quy định căn cứ xác định tính cơ bản của vi phạm hợp

Page 47: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

42

đồng tương tự PICC: Không thực hiện hợp đồng tước đi đáng kể những gì bên bị vi

phạm có quyền kỳ vọng từ hợp đồng, trừ khi bên vi phạm không tiên liệu được hoặc

không thể tiên liệu được một cách hợp lý hậu quả đó [97]. Bên cạnh đó, Điều 7.3.1

PICC và Điều 8:103 PECL còn liệt kê một số căn cứ khác để xác định tính chất cơ bản

của hành vi không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng như: (i) Không thực hiện hợp đồng

khiến cho bên bị vi phạm có thể suy đoán một cách hợp lý rằng họ không thể tin tưởng

bên kia trong việc thực hiện nghĩa vụ tiếp theo trong hợp đồng; (ii) Hợp đồng bị vi

phạm có thể dẫn tới những tổn thất (mất mát) không cân xứng của hai bên khi hợp

đồng bị chấm dứt.

Tóm lại, có thể thấy rằng, pháp luật thực định của các quốc gia, trong đó có

Việt Nam cũng như văn bản pháp lý quốc tế đều tiếp cận tính chất cơ bản của vi phạm

hợp đồng dựa vào mức độ ảnh hưởng đáng kể, nghiêm trọng của hậu quả do hành vi vi

phạm của một bên gây ra với những gì các bên mong muốn đạt được từ hợp đồng.

Mức độ ảnh hưởng đáng kể của hậu quả hành vi vi phạm hợp đồng có khi được đo

bằng hậu quả của tổn hại mà hành vi vi phạm gây ra hoặc mức độ tồn mất của lợi ích

mà các bên mong muốn, kỳ vọng đạt được từ hợp đồng. Tuy nhiên, việc xác định hậu

quả của hành vi vi phạm thông qua tổn hại sẽ khó có thể thực hiện được đối với vi

phạm hợp đồng dự đoán trước, tức là tổn hại không xảy ra trên thực tế.

Với cách tiếp cận thứ hai này, rõ ràng, nội hàm của vi phạm cơ bản hợp đồng

rộng hơn nội hàm của “vi phạm điều khoản cơ bản của hợp đồng”. Vi phạm điều

khoản cơ bản của hợp đồng là vi phạm cơ bản hợp đồng vì nó dẫn đến hậu quả pháp lý

là hợp đồng bị hủy bỏ hoặc chấm dứt. Tuy nhiên, vi phạm cơ bản hợp đồng, có khi,

không phải là vi phạm điều khoản cơ bản hợp đồng. Một hành vi vi phạm hợp đồng

mà gây hậu quả nghiêm trọng, dù đó là vi phạm điều khoản cơ bản hay điều khoản

không cơ bản, thì vi phạm đó bị coi là vi phạm cơ bản.

Người viết đồng thuận với cách tiếp cận thứ hai này. Nội hàm của vi phạm cơ

bản hợp đồng nên được hiểu rộng hơn, không nên chỉ dựa vào điều khoản cơ bản hợp

đồng. Cá nhân người viết cho rằng, khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng nên được định

nghĩa dựa vào hậu quả do hành vi vi phạm hợp đồng của một bên gây ra cho bên kia

hay vi phạm cơ bản hợp đồng là vi phạm gây ra hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng đáng

kể tời mục đích, lợi ích kinh tế là những gì mà các bên kỳ vọng khi xác lập và thực

hiện hợp đồng, bởi các lẽ sau:

Page 48: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

43

- Sự “mơ hồ” của khái niệm điều khoản cơ bản hợp đồng dẫn đến quan điểm về

nội hàm cũng như cách lý giải về điều khoản cơ bản hợp đồng là không giống nhau.

Bên cạnh đó, một hành vi vi phạm, mặc dù, điều khoản cơ bản hợp đồng nhưng mức

độ vi phạm cũng như hậu quả của hành vi vi phạm là không lớn, không nghiêm trọng

đến lợi ích mong muốn từ hợp đồng của các bên thì khó có thể cho rằng hành vi vi

phạm đó là vi phạm cơ bản hợp đồng và trao cho bên vi phạm quyền chấm dứt hay

hủy bỏ hợp đồng. Điều này có thể dẫn đến sự lạm dụng áp dụng lý thuyết về vi phạm

cơ bản hợp đồng, “triệt tiêu” nguyên tắc tuân thủ hợp đồng và nguyên trạng bất biến

trong giao kết và thực hiện hợp đồng giữa các bên.

- Khi giao kết hợp đồng, các bên trong hợp đồng đều hướng tới một mục đích

nhất định, đối với hợp đồng thương mại thì đó là lợi ích kinh tế phát sinh từ hợp đồng

và mục đích đó chỉ có thể thực hiện được khi có sự thống nhất giữa những gì các bên

đã thỏa thuận, cam kết và những gì đã diễn ra trong thực tế. Nếu hành vi vi phạm của

một bên dẫn đến sự khác biệt giữa những gì các bên đã thỏa thuận, cam kết thực hiện

và những gì đã diễn ra trong thực tế thì có thể hiểu là hành vi vi phạm của bên vi phạm

đã gây ra hậu quả có sự ảnh hưởng nghiêm trọng tới bên bị vi phạm. Và chỉ khi có

hành vi vi phạm đó, bên bị vi phạm có thể từ bỏ hợp đồng bởi xét thấy việc tiếp tục

thực hiện hợp đồng không còn ý nghĩa.

Bên cạnh đó, khi xem xét vi phạm hợp đồng cần nhìn vào vi phạm và mức độ

tác động của hành vi vi phạm đó tới những gì các bên vì nó mà ký kết và thực hiện hợp

đồng, tức là hậu quả do hành vi vi phạm gây ra hơn là xem xét đến tầm quan trọng của

điều khoản hợp đồng hay cách diễn đạt trong hợp đồng. Và hậu quả nghiêm trọng sẽ

được giải thích bởi cơ quan giải quyết tranh chấp có thẩm quyền. Điều này cho phép

cơ quan giải quyết tranh chấp có thẩm quyền xem xét vi phạm, mức độ tác động của

hành vi vi phạm và tất cả những tình huống xung quanh bao gồm các điều khoản mà

các bên thỏa thuận (trong đó có cả điều khoản cơ bản). Nó quy định phạm vi cho cơ

quan giải quyết tranh chấp đánh giá tư pháp kết quả cuối cùng [156].

Từ nhận thức về vi phạm hợp đồng và tính chất cơ bản của vi phạm hợp đồng ở

trên, tác giả xin đưa ra khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng như sau: vi phạm cơ bản

hợp đồng là vi phạm hợp đồng của một bên lấy đi đáng kể lợi ích mong muốn từ hợp

đồng của bên kia.

Page 49: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

44

Từ khái niệm về vi phạm cơ bản hợp đồng có thể thấy, vi phạm hợp đồng có

phải là cơ bản hay không phụ thuộc vào việc xác định mức độ ảnh hưởng của hành vi

vi phạm đối với lợi ích mong muốn từ hợp đồng của bên bị vi phạm hay tính nghiêm

trọng của hậu quả do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra, bất kể đó là hợp đồng dân sự

(theo nghĩa hẹp) hay hợp đồng thương mại. Cơ sở xác định mức độ ảnh hưởng nghiêm

trọng đến lợi ích mong muốn từ hợp đồng là khác nhau tùy thuộc vào quy định pháp

luật của từng quốc gia hoặc quốc tế. Chẳng hạn, Việt Nam xác định dựa trên mức độ

thiệt hại trong mối tương quan với mục đích của việc giao kết hợp đồng. Công ước

Viên dựa trên tổn hại đáng kể và hệ quả là tước đi đáng kể những gì bên bị vi phạm có

quyền kỳ vọng từ hợp đồng….

Hành vi vi phạm hợp đồng có thể gây ra hoặc không gây ra tổn thất, thiệt hại

nào cho bên bị vi phạm nhưng điều quan trọng tạo nên tính cơ bản của hành vi vi

phạm hợp đồng là lợi ích các bên mong muốn đạt được từ hợp đồng khi xác lập và

thực hiện hợp đồng bị ảnh hưởng như thế nào bởi hành vi vi phạm hợp đồng. Vì vậy,

không có sự khác nhau giữa vi phạm cơ bản hợp đồng thương mại (nhằm mục đích

sinh lợi) và hợp đồng dân sự (theo nghĩa hẹp, không nhằm mục đích sinh lợi), giữa vi

phạm cơ bản hợp đồng thương mại trong nước và hợp đồng thương mại có tính chất

quốc tế (có yếu tố nước ngoài).

MBHHQT là một hoạt động thương mại cụ thể có tính chất quốc tế hay yếu tố

nước ngoài. Hợp đồng MBHHQT là công cụ pháp lý để thực hiện hoạt động thương

mại có yếu tố nước ngoài cụ thể đó. Vì vậy, vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT cũng

chỉ là vi phạm cơ bản phát sinh từ hoặc có liên quan đến một hợp đồng thương mại có

yếu tố nước ngoài cụ thể.

Vì những lẽ trên, dựa vào khái niệm về vi phạm cơ bản hợp đồng nói chung có

thể hiểu vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT như sau: Vi phạm cơ bản hợp đồng

MBHHQT là vi phạm hợp đồng của bên bán (bên mua) lấy đi đáng kể lợi ích mong

muốn từ hợp đồng của bên mua (bên bán).

2.2.2. Đặc điểm của vi phạm cơ bản hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Như đã trình bày ở trên, về bản chất, không có sự khác nhau về vi phạm cơ bản

giữa các loại hợp đồng thương mại cụ thể (hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng

cung ứng dịch vụ….) bởi vì các hợp đồng thương mại đều có mục đích chung là nhằm

Page 50: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

45

sinh lợi. Vì vậy, vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT mang đầy đủ đặc điểm của vi

phạm cơ bản hợp đồng thương mại nói chung, cụ thể:

- Vi phạm cơ bản hợp đồng ảnh hưởng nghiêm trọng (lấy đi đáng kể) lợi ích

mong muốn từ hợp đồng của bên bị vi phạm

Hợp đồng thương mại nói chung, hợp đồng MBHHQT nói riêng được xác lập

hợp pháp và có hiệu lực pháp lý thì trong hoàn cảnh thông thường bất kỳ ai tham gia

xác lập, giao kết hợp đồng cũng đều kỳ vọng các bên đối tác phải tôn trọng và thực

hiện đúng hợp đồng. Như một học giả đã từng nhận xét: “Chức năng của pháp luật

hợp đồng, suy cho cùng là tạo ra sự tự do cho các bên định đoạt và các cơ chế hỗ trợ

để sự tự định đoạt đó được tuân thủ, góp phần biến các thỏa ước giữa các cá nhân

hoặc tổ chức trở thành có hiệu lực như là luật” [46, tr.48-49].

Các bên giao kết, thực hiện hợp đồng MBHHQT với mục tiêu gần nhất vì nó

mà các bên tham gia hợp đồng là: người mua trả tiền vì sẽ nhận được hàng hóa làm sở

hữu, nói cách khác hàng hóa – quyền sở hữu hàng hóa là mục đích của người mua

trong hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung, hợp đồng MBHHQT nói riêng. Người

bán có mục đích nhận được khoản tiền tương đương giá trị của hàng hóa.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, người bán và người mua có thể có những

hành vi vi phạm hợp đồng dẫn đến ảnh hưởng nhất định tới quyền và lợi ích mong

muốn của các bên. Những ảnh hưởng đó có thể là người mua nhận được hàng hóa làm

sở hữu nhưng hàng hóa không đủ về số lượng, không đảm bảo về chất lượng hoặc

người bán nhận không đủ tiền thanh toán. Tuy nhiên, với vi phạm cơ bản hợp đồng,

ảnh hưởng tới bên bị vi phạm phải đến mức độ nào đó đáng kể, tức là lấy đi đáng kể

lợi ích mà các bên mong muốn đạt được từ hợp đồng khi xác lập, thực hiện hợp đồng.

Lợi ích có được từ hợp đồng là cơ sở mà vì đó các bên duy trì quan hệ hợp

đồng. Để đảm bảo đạt được lợi ích từ hợp đồng, các bên phải tôn trọng, thực hiện

nghiêm túc nghĩa vụ hợp đồng. Vì vậy, tính chất cơ bản của vi phạm hợp đồng sẽ thể

hiện ở chỗ làm cho các bên không đạt được lợi ích (đáng kể hoặc toàn bộ), không

thực hiện được quyền và lợi ích hợp pháp của mình đã dự liệu khi xác lập, thực hiện

hợp đồng, đó là: quyền nhận hàng, nhận quyền sở hữu hàng hóa và quyền nhận tiền.

- Vi phạm cơ bản hợp đồng là căn cứ cho bên bị vi phạm lựa chọn duy trì hoặc

rút lui khỏi hợp đồng

Về mặt logic pháp lý, khi hợp đồng có hiệu lực, các bên không được từ chối

thực hiện nghĩa vụ và không có quyền đơn phương rút khỏi hợp đồng, nếu điều đó

Page 51: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

46

không được quy định minh thị trong luật hoặc không được dự liệu trong hợp đồng.

Bởi lẽ, một khi hợp đồng đã được xác lập và có hiệu lực pháp luật thì không chỉ có

giá trị pháp lý làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên, buộc các bên phải tôn trọng

và thực hiện mà còn ngăn cản và không cho phép các bên được từ chối thực hiện

nghĩa vụ hay rút lui khỏi hợp đồng.

Tuy nhiên, sẽ là không công bằng khi buộc bên bị vi phạm phải tuân thủ hợp

đồng và chờ đợi sự thực hiện từ phía bên kia khi bên kia đã có những hành vi vi phạm

hợp đồng lấy đi lợi ích từ hợp đồng của bên bị vi phạm khi xác lập, thực hiện hợp

đồng. Cần có biện pháp xử lý đối với những vi phạm như thế để đảm bảo quyền và lợi

ích hợp pháp cho bên bị vi phạm. Vì vậy, với tính chất cơ bản của vi phạm hợp đồng,

hiệu lực ngăn cản các bên không được rút lui khỏi hợp đồng cần phải được loại bỏ kịp

thời bằng việc trao cho bên bị vi phạm quyền lựa chọn giữa tiếp tục thực hiện, duy trì

hợp đồng với rúi lui khỏi hợp đồng (chấm dứt hiệu lực hợp đồng) để xác lập thỏa

thuận khác.

Vi phạm cơ bản hợp đồng được xem như căn cứ hợp pháp, ngoại lệ cho phép

các bên được đơn phương rút khỏi hợp đồng nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp

pháp của mình khi lợi ích mong muốn từ hợp đồng không đạt được hoặc có nguy cơ

không đạt được (đáng kể hoặc toàn bộ). Như vậy, vi phạm cơ bản hợp đồng chính là

ngoại lệ của nguyên tắc hiệu lực ràng buộc các bên phải thực thi hợp đồng, là sự thể

hiện nguyên tắc hiệu lực ngăn cản các bên không được rút lui khỏi hợp đồng.

Vi phạm cơ bản hợp đồng không chỉ xác lập nên căn cứ hợp pháp cho sự rút lui

khỏi hợp đồng của các bên mà còn ngăn cản sự rút lui “tùy tiện” của các bên như là

sự “lẩn tránh” thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Nó làm cho nguyên tắc không đơn

phương rút lui khỏi hợp đồng có tính độc lập tương đối và trở nên vô cùng quan trọng

khi một bên không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng vì cho rằng bên kia vi phạm

nghĩa vụ tương ứng đối với mình và sự vi phạm đó phải có mức độ ảnh hưởng nhất

định tới lợi ích của hợp đồng, tới mục tiêu mà vì nó các bên tham gia hợp đồng.

2.3. Cơ chế điều chỉnh pháp luật về vi phạm cơ bản hợp đồng mua bán hàng hóa

quốc tế

Vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT là vấn đề pháp lý rất phức tạp và có quan

hệ biện chứng với mọi vấn đề còn lại của pháp luật hợp đồng, đặc biệt là hiệu lực của

hợp đồng. Bởi vậy, việc điều chỉnh vi phạm cơ bản hợp đồng không chỉ bằng việc định

Page 52: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

47

nghĩa vi phạm cơ bản hợp đồng mà phải bằng cả một cơ chế thích hợp. Đó là cơ chế

điều chỉnh pháp luật về vi phạm cơ bản hợp đồng. Về mặt lý luận, việc nghiên cứu vi

phạm cơ bản hợp đồng nói chung, vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT nói riêng cần

được đặt trong mối quan hệ mang tính hệ thống với cơ chế điều chỉnh pháp luật về vi

phạm cơ bản hợp đồng để làm cơ sở lý luận cho việc tiếp cận và làm rõ các vấn đề

khoa học và pháp lý được đặc ra từ việc áp dụng vi phạm cơ bản hợp đồng, chứ không

chỉ dừng lại ở việc giải thích, làm rõ khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng. Bản thân,

khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng không có giá trị pháp lý khi đứng riêng lẻ mà phải

được xem xét trong thể thống nhất với các chế tài khi có vi phạm cơ bản hợp đồng.

2.3.1. Khái niệm về cơ chế điều chỉnh pháp luật về vi phạm cơ bản hợp đồng

“Cơ chế”, theo nghĩa chung nhất, là “cách thức sắp xếp tổ chức để làm đường

hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện” [80, tr.464]. Điều chỉnh, hiểu theo nghĩa thông

thường, là “xếp đặt cho đúng, cho hợp lý” [80, tr.637]. Theo nghĩa pháp lý, “điều

chỉnh” là sự tác động, bảo vệ, khuyến khích, hạn chế hay loại trừ của pháp luật đối với

các quan hệ xã hội và hành vi của các chủ thể trong xã hội.

“Điều chỉnh pháp luật” là “việc nhà nước dùng pháp luật, dựa vào pháp luật để

điều chỉnh các quan hệ xã hội, tác động theo hướng nhất định vào các quan hệ xã hội”

[72, tr.209]. Trên cơ sở khái niệm “cơ chế” và khái niệm “điều chỉnh pháp luật”, GS,

TSKH. Đào Trí Úc đã đưa ra định nghĩa về cơ chế điều chỉnh pháp luật như sau: “Cơ

chế điều chỉnh pháp luật” được hiểu là “hệ thống các biện pháp pháp luật (…) có quan

hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau mà quan đó thực hiện sự tác động của pháp

luật lên các quan hệ xã hội” [72, tr.214]. Các giải pháp tác động ở đây được hiểu là các

giải pháp mang tính tài sản dựa trên nguyên tắc tự do hợp đồng, ý chí tự nguyện ràng

buộc hợp đồng của các bên, lẽ công bằng và tính nghiêm minh của pháp luật [28,

tr.92]. Các giải pháp tác động cho phép dự liệu khả năng lựa chọn cách thức xử sự của

mỗi bên chủ thể trong hợp đồng để phản kháng lại sự vi phạm cơ bản hợp đồng của

bên kia, và quyền được pháp luật bảo vệ lợi ích hợp pháp bị tổn hại do hành vi vi

phạm cơ bản hợp đồng. Các giải pháp đó được thể hiện ra bên ngoài thành các quy

phạm pháp luật nhằm quy định cho phép bên bị vi phạm cơ bản hợp đồng có quyền

chấm dứt hiệu lực của hợp đồng khi có vi phạm cơ bản hợp đồng.

Từ nhận thức trên, có thể đưa ra khái niệm về cơ chế điều chỉnh pháp luật về vi

phạm cơ bản hợp đồng như sau: Cơ chế điều chỉnh pháp luật về vi phạm cơ bản hợp

Page 53: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

48

đồng là giải pháp được Nhà nước sử dụng để tác động tới các bên xác lập và thực

hiện hợp đồng khi có sự vi phạm cơ bản hợp đồng nhằm đảm bảo cho hiệu lực hợp

đồng được tôn trọng và được thực thi một cách công bằng và hợp lý.

2.3.2. Nội dung cơ chế điều chỉnh pháp luật về vi phạm cơ bản hợp đồng

Nội dung cơ bản của cơ chế điều chỉnh pháp luật về vi phạm cơ bản hợp đồng

là tập hợp các nguyên tắc quy định về các giải pháp cụ thể để tác động vào quá trình

chấm dứt hiệu lực hợp đồng khi có vi phạm cơ bản hợp đồng. Nội dung này thể hiện

qua hai khía cạnh:

(i) Bảo đảm nguyên tắc tuân thủ hợp đồng – pacta sunt servanda

Pacta Sunt Servanda trong tiếng La Tinh, có thể diễn đạt ngắn gọn là: đã hứa thì

phải làm. Ý niệm về nguyên tắc tuân thủ hợp đồng cũng gần giống chữ “tín” trong

quan niệm Nho giáo phương Đông [34].

Trong Thông luật, nguyên tắc tuân thủ hợp đồng được xem là nguyên tắc tôn

trọng và bắt buộc thực thi nghĩa vụ phát sinh từ các cam kết tự nguyện [129, tr.99].

Với ý nghĩa đó, nguyên tắc tuân thủ hợp đồng được biết đến như là một nguyên tắc

phổ biến trong cả các lĩnh vực tư, đặc biệt trong lĩnh vực pháp luật hợp đồng.

Bảo đảm nguyên tắc tuân thủ hợp đồng bao gồm: (i) bảo đảm tính bất biến của

hợp đồng, tức là một bên ký kết hợp đồng không thể đơn phương thay đổi hợp đồng.

Việc thay đổi hợp đồng phải là ý nguyện chung của các bên; (ii) Hợp đồng phải được

tuân thủ nghiêm túc. Một hợp đồng đã được xác lập hợp pháp thì ràng buộc các bên

giống như pháp luật [38, tr.231]. Cũng theo nguyên tắc tuân thủ hợp đồng, hiệu lực

hợp đồng mang tính ổn định và không thể bị hủy bỏ một cách tùy tiện khi không có sự

thống nhất ý chí của các bên xác lập và thực hiện hợp đồng.

Có thể nói, ý nghĩa của việc áp dụng nguyên tắc này là buộc các bên tham gia

giao dịch dân sự nói chung, giao dịch MBHHQT nói riêng, khi đưa các cam kết hợp

pháp, thì phải có trách nhiệm thực hiện các cam kết đó một cách trung thực, công bằng

và hợp lý, ngay cả những cam kết về vi phạm cơ bản hợp đồng. Với ý nghĩa đó, bảo

đảm nguyên tắc tuân thủ hợp đồng là nội dung chính của cơ chế điều chỉnh pháp luật

về vi phạm cơ bản hợp đồng được thể hiện qua các giải pháp sau:

- Pháp luật bảo vệ các hợp đồng được xác lập hợp pháp và buộc các chủ thể

phải tôn trọng giá trị pháp lý của hợp đồng đó.

Page 54: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

49

- Đảm bảo các bên thực hiện đúng hợp đồng và quy định chế tài cụ thể đối với

vi phạm cơ bản hợp đồng nhằm ràng buộc bên vi phạm hợp đồng gánh chịu trách

nhiệm tương xứng và bảo vệ thỏa đáng quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm.

- Hạn chế tối đa hủy bỏ hợp đồng vì những lý do chủ quan của chủ thể, góp

phần đảm bảo duy trì hợp đồng giữa các bên khi các bên không có thỏa thuận cụ thể

trong hợp đồng bằng cách quy định căn cứ pháp lý rõ ràng; đồng thời cũng hạn chế

lạm dụng quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng để hủy bỏ hợp đồng một cách tùy tiện

do ý chí của các bên xác lập và thực hiện hợp đồng.

Nói chung, bảo vệ nguyên tắc tuân thủ hợp đồng nhằm khẳng định tính chất

ràng buộc của hợp đồng, sự bất biến và tính ổn định của hiệu lực hợp đồng, với mục

đích là bảo vệ hiệu lực hợp đồng, hạn chế việc tùy tiện hủy bỏ hợp đồng.

Ở Việt Nam, Luật Thương mại quy định vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng với

ý nghĩa, trước hết, là cơ sở để áp dụng một số chế tài trong thương mại như tạm ngừng

thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng. Bên cạnh đó,

việc đặt ra quy định về vi phạm cơ bản và vi phạm không cơ bản là vì “hợp đồng

thương mại cần phải đảm bảo tính bền vững, các bên càng tuân thủ đúng hợp đồng thì

càng có lợi cho xã hội. Do vậy, các bên không thể tùy tiện hủy bỏ hợp đồng. Chỉ khi

nào một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng thì bên kia mới có quyền hủy bỏ hợp

đồng” [49, tr.54].

Ở phạm vi quốc tế, các văn bản pháp lý quốc tế như Công ước Viên, PICC và

PECL cũng quy định cơ chế điều chỉnh vi phạm cơ bản hợp đồng/không thực hiện cơ

bản hợp đồng vì lý do để hạn chế sự “tùy tiện” trong việc áp dụng chế tài hủy hợp

đồng để can thiệp vào hiệu lực của hợp đồng. Chế tài hủy hợp đồng chỉ được áp dụng

khi vi phạm hợp đồng của một bên bị coi là cơ bản. Điều này có nghĩa là, Công ước

gián tiếp phân chia vi phạm hợp đồng thành vi phạm cơ bản và vi phạm không cơ bản.

Đối với vi phạm không cơ bản, bên bị vi phạm có quyền áp dụng các chế tài như giảm

giá hàng hóa, bồi thường thiệt hại…. Bởi vì vấn đề quan trọng đối với nhà kinh doanh

là làm thế nào để thực hiện được kế hoạch của họ; trong mục đích ấy việc hủy bỏ một

hợp đồng nhiều khi gây thiệt hại lớn, vì vậy, vi phạm của một bên phải đảm bảo tính

nghiêm trọng đến một mức độ nào đó dẫn đến việc giao kết hợp đồng trở nên vô nghĩa

thì nhà kinh doanh mới được quyền hủy hợp đồng.

Page 55: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

50

(ii) Tác động lên hiệu lực hợp đồng thông qua trao quyền chấm dứt hiệu lực

hợp đồng cho bên bị vi phạm

Nội dung quan trọng của cơ chế điều chỉnh pháp luật về vi phạm cơ bản hợp

đồng là nhằm bảo đảm cho nguyên tắc tuân thủ hợp đồng được thực thi để tránh các

bên hủy bỏ hiệu lực hợp đồng một cách tùy tiện. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện

hợp đồng, không phải lúc nào nguyên tắc tuân thủ hợp đồng cũng được thực hiện

nghiêm ngặt. Vì vậy, nội dung thứ hai của cơ chế pháp luật điều chỉnh vi phạm cơ bản

hợp đồng là tác động lên hiệu lực hợp đồng nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp

của bên bị vi phạm cơ bản hợp đồng, tức là trao cho bên bị vi phạm cơ bản hợp đồng

quyền hủy hợp đồng khi các bên không có thỏa thuận về vấn đề này.

Hủy hợp đồng là chế tài nặng nhất trong các chế tài do vi phạm hợp đồng bởi

hợp đồng sẽ không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết. Khi hợp đồng bị hủy bỏ,

không chỉ các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận được từ nhau mà bên thiệt

hại còn có quyền yêu cầu bên kia bồi thường thiệt hại. Sự hủy bỏ hiệu lực hợp đồng có

hiệu lực hồi tố và đặt các đương sự trở lại tình trạng trước khi ký kết hợp đồng, những

nghĩa vụ chưa thi hành thì sẽ bị tiêu hủy và những nghĩa vị đã thi hành thì sẽ được thu

hồi lại [3, tr.58]. Vì vậy, pháp luật tác động lên hiệu lực của hợp đồng bằng việc trao

cho bên bị vi phạm quyền hủy bỏ hợp đồng sau khi cơ quan tài phán đã kiểm tra tính

cơ bản của hành vi vi phạm hợp đồng, và nếu không thể nào có biện pháp hàn gắn

được. Tác động lên hiệu lực hợp đồng đòi hỏi luôn gắn xác định tính chất cơ bản của

vi phạm hợp đồng với áp dụng chế tài hủy hợp đồng.

Cơ chế tác động lên hiệu lực của hợp đồng chính là việc trao quyền hủy hợp

đồng cho bên bị vi phạm khi có đủ căn cứ cho rằng bên kia đã có sự vi phạm cơ bản

hợp đồng. Ý nghĩa của cơ chế này ở chỗ thừa nhận sự hủy hợp đồng là đương nhiên và

không cần đến sự can thiệp của cơ quan tài phán bởi nếu chỉ có cơ quan tài phán mới

có quyền hủy hợp đồng theo yêu cầu của một bên giao kết thì thủ tục này tỏ ra rườm rà

và là một sự can thiệp không cần thiết vào quyền tự do hợp đồng. Ở đây, cơ quan tài

phán chỉ có nhiệm vụ xem xét yêu cầu hủy bỏ hợp đồng có hội đủ điều kiện luật định,

tức là có thỏa mãn các yếu tố cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng hoặc thỏa thuận của

các bên về hủy bỏ hợp đồng hay không. Bằng việc xem xét căn cứ áp dụng vi phạm cơ

bản hợp đồng, tòa án cố gắng tham gia hỗ trợ bên có vị thế bất lợi khi ký kết hợp đồng

và nhờ đó bảo vệ bên có vị thế bất lợi khi ký kết hợp đồng.

Page 56: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

51

Cơ chế điều chỉnh này đã được quy định tại Điều 49 và Điều 64 Công ước

Viên, đó là: chỉ khi một bên không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng cấu thành vi phạm cơ

bản hợp đồng thì bên kia có quyền hủy hợp đồng. Vi phạm cơ bản hợp đồng cũng

được sử dụng như là căn cứ để áp dụng chế tài hủy hợp đồng trong một số tình huống

đặc biệt như: người mua có thể tuyên bố hủy hợp đồng nếu việc không giao hàng đầy

đủ hoặc phù hợp với hợp đồng cầu thành vi phạm cơ bản hợp đồng (khoản 2 Điều 51),

hủy hợp đồng đối với vi phạm trước thời hạn (Điều 72) và giao hàng từng phần (Điều

73). Bên cạnh đó, vi phạm cơ bản hợp đồng còn là điều kiện tiên quyết đối với quyền

yêu cầu giao hàng thay thế nếu hàng hóa được giao không phù hợp với hợp đồng

(khoản 2 Điều 46). Vì vậy, vi phạm cơ bản hợp đồng đã tạo ra “ranh giới” giữa các chế

tài “thông thường” do vi phạm hợp đồng như bồi thường thiệt hại, giảm giá hàng hóa

với chế tài “nặng nề” như hủy hợp đồng. Điều 70 Công ước Viên quy định “nếu người

bán vi phạm cơ bản hợp đồng thì các quy định của các Điều 67, 68, 69 không ảnh

hưởng đến quyền của người mua sử dụng các chế tài đối với vi phạm đó”. Tuy nhiên,

vi phạm cơ bản hợp đồng có ý nghĩa quan trọng nhất ở chỗ vi phạm cơ bản hợp đồng

là điều kiện tiên quyết được dùng để áp dụng chế tài hủy hợp đồng.

Với các vi phạm không cơ bản, bên bị vi phạm có thể áp dụng các chế tài bồi

thường thiệt hại, buộc thực hiện đúng hợp đồng, giảm giá hàng bán….nhằm mục đích

cân bằng lợi ích so với trước khi có hành vi vi phạm không cơ bản. Tuy nhiên, với vi

phạm cơ bản hợp đồng, bên vi phạm có thể hủy hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt

hại (nếu có). Hủy hợp đồng được xem là chế tài nặng nhất trong các chế tài trong

MBHHQT mà người bán và người mua có thể sử dụng trong trường hợp có vi phạm

hợp đồng.

Bên cạnh đó, cơ chế điều chỉnh pháp luật về vi phạm cơ bản hợp đồng thông

qua tác động lên hiệu lực hợp đồng còn được thể hiện ở nội dung loại trừ áp dụng điều

khoản miễn trừ trách nhiệm khi có vi phạm cơ bản hợp đồng. Vi phạm cơ bản hợp

đồng được xem như nguyên tắc của pháp luật và được áp dụng không phụ thuộc vào ý

chí của các bên [156]. Cơ chế điều chỉnh pháp luật về vi phạm cơ bản hợp đồng mở

rộng cho việc giải thích có hay không nếu có vi phạm cơ bản hợp đồng thì điều khoản

miễn trừ không được áp dụng [155]. Vi phạm cơ bản hợp đồng làm cho chấm dứt hợp

đồng. Nếu có vi phạm cơ bản hợp đồng thì điều khoản miễn trừ có thể không được áp

dụng bởi vì bên bị vi phạm có quyền hủy toàn bộ hợp đồng và sự thật là anh ta không

Page 57: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

52

nhận được những gì anh ta dự tính [155]. “Điều khoản miễn trừ luôn có nguy cơ bị vô

hiệu, đặc biệt khi trách nhiệm được miễn trừ có liên quan đến vi phạm cơ bản hợp

đồng. Điều khoản miễn trừ gạt bỏ mọi chế tài mà thông thường vẫn áp dụng trong

trường hợp không thực hiện hợp đồng bao gồm cả vi phạm cơ bản hợp đồng. Do đó,

điều khoản miễn trừ bị coi là một yếu tố làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự cân bằng

của hợp đồng, gây bất lợi cho bên có quyền và đe dọa sự công bằng giữa các bên. Điều

khoản miễn trừ có thể làm cho hợp đồng hoàn toàn bị biến dạng, và do đó làm biến đổi

nội dung hoạt động thương mại mà bên có quyền dự định tiến hành” [57, tr.159]. Việc

tác động lên hiệu lực của hợp đồng khi có vi phạm cơ bản hợp đồng còn nhằm hạn chế

hiệu lực của các quy định miễn trách nhiệm bằng quy định rằng khi một bên vi phạm

cơ bản hợp đồng, các bên không thể dựa vào quy định miễn trách nhiệm để giảm trách

nhiệm của bên vi phạm vi hậu quả của hành vi vi phạm [123, tr.182].

Kết luận Chương 2

Hợp đồng MBHHQT là công cụ pháp lý cơ bản trong các giao dịch MBHHQT,

là cơ sở xác lập nghĩa vụ giữa người bán và người mua. Từ những phân tích, đánh giá

ở trên, có thể rút ra một số kết luận sau: (1) Hợp đồng MBHHQT là hợp đồng mua bán

hàng hóa có tính chất quốc tế hay có yếu tố nước ngoài, theo đó một bên (người Bán)

có nghĩa vụ giao hàng, chứng từ liên quan hàng hóa và quyền sở hữu về hàng hóa cho

bên kia (người Mua) và người mua có nghĩa vụ thành toán tiền hàng và nhận hàng; (2)

Vi phạm hợp đồng nói chung, vi phạm hợp đồng MBHHQT nói riêng là việc không

thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận,

theo thói quen trong thương mại giữa các bên, pháp luật điều hợp đồng hoặc tập quán

thương mại quy định; (3) Vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT là một dạng vi phạm

cơ bản hợp đồng nên được tiếp cận theo cách hiểu là vi phạm hợp đồng của một bên

lấy đi đáng kể lợi ích mong muốn từ hợp đồng của bên kia; (4) Cơ chế điều chỉnh pháp

luật về vi phạm cơ bản hợp đồng đòi hỏi tôn trọng nguyên tắc tuân thủ hợp đồng và

trao quyền chấm dứt hiệu lực hợp đồng cho bên bị vi phạm khi có vi phạm cơ bản hợp

đồng. Trên cơ sở những vấn đề lý luận ở Chương 2, Chương 3 sẽ tập trung làm rõ các

yếu tố cấu thành tính cơ bản của hành vi vi phạm hợp đồng MBHHQT theo Công ước

Viên trong mối liên hệ với pháp luật thực định của Việt Nam.

Page 58: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

53

CHƯƠNG 3

CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH TÍNH CƠ BẢN CỦA VI PHẠM HỢP ĐỒNG

THEO CÔNG ƯỚC VIÊN

Với 83 quốc gia thành viên (tính đến thời điểm tháng 1/6/2015), Công ước Viên

đang điều chỉnh khoảng ¾ giao dịch thương mại thế giới và là Công ước về thương

mại có diện áp dụng rộng rãi nhất [75, tr.5]. Các quốc gia thành viên nằm tại mọi châu

lục và những cường quốc kinh tế lớn trên thế giới (Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp, Đức,

Canada, Nga, Trung Quốc, Australia…) đều đã tham gia Công ước. Ở Châu Á, bốn

nền kinh tế mạnh là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore đều đã là thành viên

của Công ước. Các quốc gia này đều là bạn hàng lớn và lâu dài của Việt Nam. Mỗi

quy định của Công ước Viên là kết quả của quá trình đàm phán, thương lượng, nhân

nhượng của mỗi thành viên tham gia đàm phán và là kết quả thực sự của việc thống

nhất, hài hòa hóa pháp luật về hợp đồng MBHHQT. Với cách thức soạn thảo như vậy,

các điều khoản của Công ước Viên thể hiện được sự thống nhất, hài hòa các quy phạm

khác nhau trong pháp luật của các quốc gia tham gia soạn thảo, phản ánh được mối

quan tâm chung của các quốc gia này. Các chuyên gia cũng đánh giá Công ước Viên là

tập hợp các quy phạm khá hiện đại, thể hiện được sự bình đẳng giữa bên mua và bên

bán trong quan hệ MBHHQT. Các quy phạm này cũng phù hợp với thực tiễn

MBHHQT [75, tr.5].

Vi phạm cơ bản hợp đồng là quy định có ý nghĩa quan trọng, giữ vai trò trung

tâm trong việc áp dụng các quy định có liên quan khác của Công ước Viên. Cũng như

các quy định khác của Công ước Viên, quy định về vi phạm cơ bản được “dung hòa”

bởi hơn 83 quốc gia tham gia soạn thảo và/hoặc phê chuẩn. Vì vậy, làm rõ các yếu tố

cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng theo Điều 25 Công ước Viên không chỉ

làm cơ sở xác định chế tài cụ thể mà còn là cơ sở xem xét, soi chiếu các quy định có

liên quan vi phạm cơ bản hợp đồng của pháp luật Việt Nam.

3.1. Vi phạm cơ bản theo Công ước Viên (có so sánh với pháp luật Việt Nam)

Ngay từ năm 1930 khi UNIDROIT bầu ra Ủy ban soạn thảo Luật mua bán

hàng hóa thống nhất thì ý tưởng thiết lập cho các bên giao kết hợp đồng quyền hủy

hợp đồng căn cứ vào tính cơ bản hay tính nghiêm trọng của hành vi vi phạm hợp

đồng đã hình thành. Tuy nhiên, trong Dự thảo năm 1939, các nhà soạn thảo lại không

đưa ra khái niệm về vi phạm cơ bản hợp đồng trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ của

Page 59: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

54

một bên trong hợp đồng mà thay vào đó vi phạm hợp đồng được hiểu là sự vi phạm

một nghĩa vụ hợp đồng cụ thể như vi phạm nghĩa vụ giao hàng hoặc nhận hàng [11,

Điều 53-55, 66].

Khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng lần đầu tiên được giới thiệu trong quá trình

chuẩn bị cho ULIS và được quy định trong Dự thảo năm 1956 và 1963. Với việc

thông qua ULIS tại Hội nghị Hague năm 1964, khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng đã

được quy định tại Điều 10 “For the purposes of the present Law, a breach of contract

shall be regarded as fundamental wherever the party breach knew, or ought to have

known, at the time of the conclusion of the contract, that a reasonable person in the

same situation as the other party would not have entered into the contract if he had

foreseen the breach and its effects” (tiếng Việt là “Vì mục đích của luật này, vi phạm

hợp đồng được xem là cơ bản nếu bên vi phạm biết hoặc phải biết được vào thời điểm

giao kết hợp đồng rằng một người có lý trí trong tình huống tương tự bên kia sẽ không

giao kết hợp đồng nếu anh ta nhìn thấy trước vi phạm và hậu quả của nó”).

Tuy nhiên, cũng tại Hội nghị Hague, khái niệm này bị chỉ trích mạnh mẽ.

Trên cơ sở đề xuất của Mexico, Phillipines và Hoa Kỳ, Ủy ban soạn thảo đã sửa

quy định tại Điều 10 và đưa vào Điều 23 Dự thảo Công ước năm 1978: “A breach

committed by one of the parties is fundamental if it results in substantial detriment to

the other party unless the party in breach did not foresee and had no reason to foresee

such a result” (tiếng Việt là “Hành vi vi phạm của một bên là cơ bản nếu hành vi vi

phạm đó làm cho bên kia tổn hại đáng kể trừ khi bên vi phạm không nhìn thấy trước

hoặc không có lý do để nhìn thấy trước hậu quả của hành vi vi phạm đó”). Rõ ràng,

không giống với quy định tại Điều 10 ULIS, khái niệm đưa ra tại Điều 23 đã không

đề cập đến thời điểm có thể tiên liệu được hậu quả của hành vi vi phạm và

UNCITRAL “không xem xét đến việc cần thiết để chỉ rõ thời điểm bên vi phạm phải

thấy trước hay có lý do để thấy trước hậu quả của hành vi vi phạm” [162, tr.31].

Tại Hội nghị Viên, trên cơ sở ý kiến đề xuất của Đoàn đại biểu các nước: Áo,

Liên Bang Đức, Cộng hòa Séc, Mexico, Pakistan, Vương quốc Anh, Hy Lạp, Thổ

Nhĩ Kỳ và Ấn Độ, Ủy ban soạn thảo đã sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện khái niệm về vi

phạm cơ bản hợp đồng tại Điều 25 Công ước Viên (khái niệm này đã được thông qua

với 42 phiếu thuận, 2 phiếu chống và 2 phiếu trắng) như hiện nay:

Page 60: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

55

“A breach of contract committed by one of the parties is fundamental if it

results in such detriment to the other party as substantially to deprive him of what he is

entitled to expect under the contract, unless the party in breach did not foresee and a

reasonable person of the same kind in the same circumstances would not have foreseen

such a result”

Hiện tại, ở Việt Nam, bản dịch Điều 25 Công ước Viên sang tiếng Việt đã được

nhiều tác giả công bố, cụ thể:

- “Một sự vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ bản nếu sự vi

phạm đó làm cho bên đối ước bị thiệt hại mà người bị thiệt hại trong một chừng mực

đáng kể, bị mất cái mà họ có quyền mong đợi trên cơ sở hợp đồng, trừ phi bên vi

phạm không tiên liệu được hậu quả đó và một người có lý trí minh mẫn cũng sẽ không

tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hoàn cảnh tương tự” [43, tr.898; 71, tr.466; 70,

tr.62].

- “Vi phạm hợp đồng do một bên hợp đồng gây ra được coi là vi phạm nghiêm

trọng nếu nó kéo theo thiệt hại cho phía bên kia đến mức làm cho họ bị mất đi phần

lớn những gì mà họ có quyền nhận được theo hợp đồng, trừ trường hợp một bên vi

phạm không lường trước được hậu quả và người đại diện hợp pháp hành động với tư

cách như bên trong hoàn cành tương tự cũng không lường trước được hậu quả đó”

[32, tr.646; 33, tr.66].

- “Một sự vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ bản nếu sự vi

phạm đó làm cho bên kia bị thiệt hại mà người bị thiệt hại trong một chừng mực đáng

kể bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng, trừ phi bên vi phạm không

tiên liệu được hậu quả đó và người có lý trí minh mẫn cũng sẽ không tiên liệu được”

[4, tr.16].

- “Sự vi phạm cam kết của một trong các bên được coi là nghiêm trọng nếu vi

phạm đó phương hại nghiêm trọng cho bên kia, làm tước đi của bên đó những gì bên

đó có quyền được hưởng theo hợp đồng, trừ khi bên vi phạm không thấy trước và một

người bình thường như bên vi phạm trong các tình huống tương tự sẽ không thể nhìn

thấy hậu quả đó” [18, tr.664].

-“Một sự vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ bản nếu nó gây

thiệt hại một cách đáng kể cho bên kia làm cho bên kia mất đi những gì mà anh ta có

quyền mong đợi trên cơ sở hợp đồng, trừ trường hợp bên vi phạm không tiên liệu

Page 61: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

56

được và một người có lí trí bình thường cũng sẽ không tiên liệu được hậu quả nếu họ

cũng ở vào địa vị và hoàn cảnh tương tự” [11, tr.16].

Các bản dịch nói trên, về cơ bản đã dịch được ý chính của Điều 25 Công ước

Viên. Tuy nhiên, một số thuật ngữ trong Điều 25 Công ước Viên chưa thực sự được

dịch sát nghĩa, cụ thể:

- Một số bản dịch dịch từ “fundamental” là nghiêm trọng là chưa chính xác vì

theo Từ điển Anh-Việt thì từ “fundamental” có nghĩa là cơ bản, không có nghĩa nào là

“nghiêm trọng”.

- Đa số bản dịch đều dịch “detriment” nghĩa là “thiệt hại”. Theo Từ điển

Black’s Law (phiên bản thứ 9), từ “detriment” có nghĩa là “any loss or harm suffered

by a person or property” [91, tr.461], từ “harm” có nghĩa là “injury, loss or

detriment” [91, tr.722], “damage” là “loss or injury to person or property”,

“damages” là “money claimed by, or ordered to be paid to, a person as compensation

for loss or injury”. Trong Từ điển Anh-Anh của Cambridge, “detriment” là “harm

or damage”, từ “harm” có nghĩa là “physical or other injury or damage”. Tương tự,

theo Từ điển Tiếng Anh hiện đại Longman, 3rd

Edition, “detriment” nghĩa là “the

state of being harmed or damaged by something”, “harm” nghĩa là “damage, injury

or trouble caused by someone’s actions”, “damage” nghĩa là “physical harm caused

to something or someone”. Như vậy, về mặt ngữ nghĩa tiếng Anh nói chung, tiếng Anh

pháp lý nói riêng thì không có sự phân biệt rõ ràng giữa “detriment”, “damage”,

“harm”, “injury” và “loss”.

Theo từ điển Anh-Việt thì không có sự khác biệt rõ ràng giữa nghĩa của từ

“detriment”, “damage”, “harm” và “loss”. “Detriment” là “làm hại, có hại” [79,

tr.475], “gây tổn hại, có hại, thiệt hại” [55, tr.516], “damage” là “sự mất mát giá trị,

sự hư hại, gây hư hại” [79, tr.438], “gây thiệt hại, làm tổn hại, làm hư hại cho vật gì”

[55, tr.468]; “harm” là “sự tổn hại, sự thiệt hại, gây hại” [79, tr.805], “sự tổn hại,

thiệt hại” [55, tr.908], “loss” là “sự mất mát, sự tổn thất, sự tổn hại”, “mất mát, tổn

thất, thua lỗ” [55, tr.1172]. Như vậy, về nghĩa Anh-Việt thì các từ “detriment”,

“damage”, “harm” đều có nghĩa chung là “tổn hại, thiệt hại, hư hại”, còn “loss” là

“tổn thất”. Về nghĩa tiếng Việt thì sự phân biệt cũng không rõ ràng giữa từ “thiệt hại”,

“tổn hại” và “tổn thất”. “Thiệt hại” là “bị mất mát về người, của cải vật chất hoặc

Page 62: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

57

tinh thần” [78, tr.943]; “tổn hại” là “làm mất mát, hư hại lớn” [78, tr.1012], “tổn

thất” là “mất mát, thiệt hại” [78, tr.1012].

Từ những căn cứ trên, người viết cho rằng việc dịch từ “detriment” là “thiệt

hại” không làm mất đi nghĩa của từ “detriment”. Tuy nhiên, như Bình luận của Ban thư

ký của UNCITRAL thì thuật ngữ “detriment” cần được giải thích ở nghĩa rộng hơn từ

“damage” (cũng có nghĩa là “thiệt hại”) [162] và để phân biệt với từ “damage” được sử

dụng ở Điều 66, 68 Công ước Viên và “damages” – “khoản tiền bồi thường thiệt hại”

quy định ở Điều 74 Công ước Viên và các điều khoản khác như Điều 34, 37, 44, 45,…,

người viết dịch từ “detriment” nghĩa là “tổn hại”.

- Một số bản dịch dịch từ “deprive of” là “làm mất đi” là chưa thực sự sát

nghĩa vì “deprive of “ nghĩa là “lấy đi, tước đoạt, cướp đoạt”; “to expect” không thể

dịch là “được hưởng” mà thay vào đó là “kỳ vọng” hay “mong muốn” để thể hiện sự

muốn và hy vọng cũng như đặt tin tưởng có được những gì từ hợp đồng; dịch thiếu “of

the same kind” (“cùng nền tảng hay địa vị”).

Từ những nhận thức trên, nhằm phục vụ nghiên cứu quy định về vi phạm cơ

bản của Công ước Viên, trong Luận án này, người viết dịch nội dung Điều 25 như sau:

“Vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là cơ bản nếu vi phạm đó gây tổn hại

cho bên kia đến mức tước đi đáng kể những gì bên kia có quyền kỳ vọng từ hợp

đồng, trừ khi bên vi phạm không tiên liệu được và một người có lý trí cũng không

tiên liệu được hậu quả đó nếu họ ở vào địa vị và hoàn cảnh tương tự”.

Có thể nói, quy định về vi phạm cơ bản tại Điều 25 Công ước Viên đã giữ

được tính khách quan trong xác định mức độ “đáng kể” của tổn hại bằng yếu tố

“quyền kỳ vọng” từ phía bên bị vi phạm và sự khách quan trong xem xét khả năng

nhận thức được hậu quả của hành vi vi phạm của bên vi phạm bằng yếu tố “một người

có lý trí ở vào địa vị và hoàn cảnh tương tự”. Thêm vào đó, khái niệm cũng thể hiện

được quan điểm phải đưa yếu tố mức độ tác động lên lợi ích bên bị vi phạm kỳ

vọng từ hợp đồng để kết luận vi phạm có phải cơ bản hay không [109, tr.245].

Bên cạnh Công ước Viên, PICC và PECL có thể được sử dụng để giải thích vi

phạm cơ bản hợp đồng quy định tại Điều 25 Công ước Viên bởi lẽ: (i) Lời nói đầu của

PICC, PECL đã khẳng định mục đích của PICC, PECL là có thể được sử dụng để giải

thích hoặc bổ sung cho các văn bản pháp lý quốc tế nhằm thống nhất luật; (ii) Các quy

Page 63: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

58

định của PICC, PECL về vi phạm cơ bản hợp đồng có thể sử dụng như là một công cụ

giải thích Công ước Viên miễn là các quy định có liên quan của PICC, PECL có cùng

mục đích với các quy định của Công ước Viên và phù hợp với quy tắc giải thích Công

ước Viên quy định tại khoản 1 Điều 7 Công ước Viên, PICC và PECL đều cho phép

hủy hợp đồng hoặc chấm dứt hợp đồng chỉ khi vi phạm hợp đồng là cơ bản [115,

tr.89].

Khoản 2 Điều 7.3.1 PICC cũng quy định mỗi bên có thể chấm dứt hợp đồng

khi bên kia không thực hiện cơ bản nghĩa vụ hợp đồng và liệt kê năm (5) căn cứ xác

định không thực hiện nghĩa vụ của một bên là cơ bản hay không, trong đó có căn cứ:

“Không thực hiện hợp đồng tước đi đáng kể những gì bên bị vi phạm có quyền kỳ

vọng từ hợp đồng, trừ khi bên vi phạm không tiên liệu được hoặc không thể tiên liệu

được một cách hợp lý hậu quả đó” . Tương tự PICC, Điều 8:103 của PECL cũng liệt

kê các căn cứ xác định không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng là cơ bản, trong đó có căn

cứ: “Không thực hiện hợp đồng tước đi đáng kể những gì bên bị vi phạm có quyền kỳ

vọng từ hợp đồng, trừ khi bên vi phạm không tiên liệu được hoặc không thể tiên liệu

được một cách hợp lý hậu quả đó”. Có thể thấy, các căn cứ nêu trên về không thực

hiện cơ bản nghĩa vụ hợp đồng tại PICC và PECL, về cơ bản, tương tự Điều 25 Công

ước Viên. Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa quy định về vi phạm cơ bản tại Điều 25

Công ước Viên với PICC và PECL là ở chỗ:

- Công ước Viên không quy định cụ thể các yếu tố, căn cứ xác định tính cơ bản

của vi phạm hợp đồng mà thay vào đó là định nghĩa đề cập đến các yếu tố xác định

tính cơ bản của vi phạm hợp đồng. PICC và PECL lại liệt kê các căn cứ khác nhau

chứa đựng các yếu tố xác định tính cơ bản của không thực hiện hợp đồng (vi phạm

hợp đồng). Ngoài căn cứ nêu trên, để xác định hành vi không thực hiện nghĩa vụ hợp

đồng là cơ bản hay không, PICC và PECL đều liệt kê thêm một số căn cứ khác: (i)

Không tuân thủ chặt chẽ những nghĩa vụ vốn là yếu tố quan trọng của hợp đồng

(nghĩa vụ cốt lõi/chính); (ii) Không thực hiện hợp đồng của một bên khiến cho bên kia

có thể suy đoán một cách hợp lý rằng họ không thể tin tưởng vào việc thực hiện hợp

đồng trong tương lai của bên kia; (iii) Không thực hiện hợp đồng dẫn tới những tổn

thất không cân xứng của hai bên khi hợp đồng bị chấm dứt.

- Một trong những yếu tố tiên quyết, trực tiếp để xác định tính cơ bản của vi

phạm hợp đồng theo Công ước Viên là phải có tổn hại do hành vi vi phạm gây ra dẫn

Page 64: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

59

đến hậu quả là những gì bên bị vi phạm có quyền kỳ vọng từ hợp đồng bị tước đi đáng

kể. Tuy nhiên, PICC và PECL đều không trực tiếp quy định “tổn hại” là yếu tố tiên

quyết khi xác định tính cơ bản của vi phạm hợp đồng mà thay vào đó là quy định

“tước đi đáng kể” (“substantially deprives”). Cách diễn đạt này có ý nghĩa đặc biệt ở

chỗ “tổn hại” không cần thiết là yếu tố tiên quyết để xác định vi phạm cơ bản hợp

đồng mà xem xét trực tiếp việc hành vi vi phạm có dẫn đến hậu quả là “tước đi đáng

kể” những gì được kỳ vọng hay không. Nếu hậu quả của vi phạm hợp đồng là “tước đi

đáng kể” lợi ích của bên bị vi phạm đến mức làm mất đi sự quan tâm đến việc thực

hiện hợp đồng thì vi phạm hợp đồng đó là vi phạm cơ bản [122, tr. 365].

So với Công ước Viên, Luật Thương mại Việt Nam cũng có cách tiếp cận

tương tự khi định nghĩa về vi phạm cơ bản tại khoản 13 Điều 3 của Luật như sau: Vi

phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức

làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.

Về phương diện thuật ngữ, mặc dù diễn đạt khác nhau nhưng Khoản 13 Điều 3

Luật Thương mại và Điều 25 Công ước Viên có một số điểm tương đồng khi quy định

về vi phạm cơ bản hợp đồng như: Hành vi vi phạm hợp đồng của một bên phải gây

thiệt hại cho bên kia và thiệt hại phải đáng kể (đến mức) làm mất đi mục đích của giao

kết hợp đồng. Điều 25 Công ước Viên sử dụng cụm từ “đến mức tước đi đáng kể

những gì bên kia có quyền kỳ vọng từ hợp đồng” trong khi đó Luật Thương mại sử

dụng cụm từ “bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng” để “đo

lường” tính nghiêm trọng của thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng của một bên gây

ra cho bên kia.

Tuy nhiên, điểm khác biệt trong định nghĩa về vi phạm cơ bản hợp đồng tại

Điều 25 Công ước Viên và khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại là: Công ước Viên cho

phép loại trừ tính cơ bản của vi phạm hợp đồng, từ đó ngăn cản việc hủy hợp đồng của

bên bị vi phạm nếu bên vi phạm chứng minh được “bên vi phạm không tiên liệu được

và một người có lý trí cũng không tiên liệu được hậu quả đó nếu họ ở vào địa vị và

hoàn cảnh tương tự”, tức là một sự vi phạm hợp đồng, dù gây tổn hại đến mức làm

cho bên kia bị tước đi những gì anh ta có quyền kỳ vọng từ hợp đồng, sẽ không bị coi

là vi phạm cơ bản nếu bên vi phạm chứng minh được điều nói trên. Luật Thương mại

Việt Nam không có quy định tương tự như Công ước Viên. Thay vì quy định loại trừ

vi phạm cơ bản hợp đồng, Luật thương mại chỉ quy định các trường hợp miễn trách để

Page 65: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

60

loại trừ trách nhiệm khi có vi phạm hợp đồng, dù đó là vi phạm cơ bản hay không cơ

bản như: xảy ra sự kiện bất khả kháng; hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi

của bên kia; hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý

nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp

đồng [40, Điều 294].

3.2. Quy định và thực tiễn xác định yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp

đồng theo Công ước Viên

Công ước Viên không liệt kê cụ thể các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi

phạm hợp đồng MBHHQT mà từ quy định tại Điều 25 cho thấy, nếu các bên không có

thỏa thuận khác, các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng được xem xét

từ hai phía: (i) Đối với bên bị vi phạm, yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp

đồng là tổn hại do vi phạm hợp đồng gây ra và tổn hại đó phải đến mức tước đi đáng

kể những gì bên bị vi phạm có quyền kỳ vọng từ hợp đồng, tức tổn hại cũng phải đáng

kể; (ii) Đối với bên vi phạm, yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng là khả

năng tiên liệu được tổn hại do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra. Phần dưới đây sẽ lần

lượt phân tích các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng cũng như thực

tiễn xác định các yếu tố này của tòa án, trọng tài của một số quốc gia thành viên Công

ước.

3.2.1. Có tổn hại đáng kể của bên bị vi phạm

Vi phạm hợp đồng thường làm phát sinh tổn hại nhưng tổn hại không luôn luôn

tồn tại khi có vi phạm hợp đồng. Trong thực tế, không hiếm trường hợp có việc vi

phạm hợp đồng nhưng không có tổn hại. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 25 Công

ước Viên, tổn hại do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra là yếu tố bắt buộc, tiên quyết

cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng.

Lịch sử soạn thảo Điều 25 Công ước Viên, như đã trình bày ở trên, đã cho thấy

sự có mặt của thuật ngữ “tổn hại” là kết quả của quá trình tranh luận về bất cập của

tiêu chí xác định vi phạm cơ bản hợp đồng quy định tại Điều 10 của ULIS năm 1964,

theo đó “Vì mục đích của luật này, vi phạm hợp đồng được xem là cơ bản nếu bên vi

phạm biết hoặc phải biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng rằng một người có lý

trí trong tình huống tương tự bên kia sẽ không giao kết hợp đồng nếu anh ta nhìn thấy

trước vi phạm và hậu quả của nó”. Như vậy, theo quy định này, việc xác định có hay

không có hành vi vi phạm dựa trên yếu tố chủ quan là “bên vi phạm biết hoặc phải

Page 66: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

61

biết”. Điều này sẽ dẫn đến khó khăn cho bên bị vi phạm trong việc xác định hành vi vi

phạm của bên vi phạm là cơ bản hay không cơ bản. Việc đưa quy định về “detriment”

(“tổn hại”) vào Điều 25 Công ước Viên, tức là đưa ra một công cụ kiểm tra khách

quan để xác định vi phạm cơ bản hợp đồng, nhằm ngăn cản những khó khăn khi sử

dụng tiêu chí kiểm tra mang tính chủ quan của ULIS. Tuy nhiên, Công ước Viên

không giải thích, không có quy định cụ thể nào liên quan đến làm rõ nội hàm của thuật

ngữ “detriment” (“tổn hại”).

Xét về mặt thuật ngữ, “detriment” là “any loss or harm suffered by a person or

property”, nghĩa là “bất kỳ tổn thất hoặc thiệt hại về người hoặc tài sản” [91, tr.461].

Như vậy, tổn hại nêu ra ở Điều 25 không chỉ đề cập đến tổn thất hoặc thiệt hại vật chất

(tổn thất tài sản, mất mát giá trị tài sản, mất lợi nhuận, mất cơ hội có lợi nhuận) mà còn

những tổn thất hoặc thiệt hại về tinh thần (tổn thất về thân thể, sức khỏe, uy tín, danh

dự). Tuy nhiên, tổn hại này có bao gồm tổn hại hay thiệt hại về mặt pháp lý (mất một

quyền đối với giá trị tiền tệ, ảnh hưởng về quyền, nghĩa vụ pháp lý, quyền được giữ tài

sản, quyền được tôn trọng) hay không? Tổn hại này là tổn thất hoặc thiệt hại thực tế

hay tổn thất hoặc thiệt hại tiên liệu?.

Chình vì Công ước Viên không có quy định nhằm làm rõ nội hàm của thuật ngữ

“tổn hại” khi dùng nó trong Điều 25 để xác định có hay không có vi phạm cơ bản hợp

đồng nên đã có nhiều quan điểm, tranh luận xoay quanh thuật ngữ này.

Ban thư ký của UNCITRAL cho rằng thuật ngữ “tổn hại” không chỉ thay cho

“tổn thất” (injury), “tổn hại/thiệt hại” (harm) và “kết quả” (result) mà còn để chỉ “tổn

hại tiền bạc” và “sự can thiệp vào các hoạt động khác”, điều này có nghĩa là thuật ngữ

“tổn hại” được sử dụng ở Điều 25 cần được giải thích với “nghĩa rộng” [162]. Nhưng

“rộng” như thế nào thì Ban thư ký cũng không đưa ra được giải thích thỏa đáng cho

nội hàm của thuật ngữ này.

Về phương diện lý luận, đã có nhiều tác giả đàm luận về nội hàm của thuật ngữ

“tổn hại” tại Điều 25 Công ước Viên. Tác giả Michael Will cho rằng khi xem xét nội

hàm của thật ngữ “tổn hại” cần tập trung xem xét mục đích của thuật ngữ [132, tr.205].

Mục đích thuật ngữ “tổn hại” quy định ở Điều 25 cho phép bên bị vi phạm hủy hợp

đồng hoặc được giao hàng thay thế. Vì vậy, tổn hại ở đây có thể định nghĩa là “việc bị

lấy đi một cái gì đó mà một bên có quyền nắm giữ hoặc làm một điều gì đó mà một

bên không có quyền làm điều đó” [132, tr.205]. Theo tác giả Graffi, tổn hại không

Page 67: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

62

đồng nghĩa với “tổn thất” (loss) hay “thiệt hại” (damage) bởi Điều 74 Công ước đã

quy định một bên có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại (tổn thất, bao gồm cả lợi

nhuận bị bỏ lỡ) thậm chí khi không có hành vi vi phạm cơ bản hợp đồng [126]. Ý

nghĩa của “tổn hại” (detriment) rộng hơn “tổn thất” (loss). Khái niệm tổn hại rộng hơn

khái niệm tổn thất nhưng tổn hại kinh tế mà bên bị vi phạm phải gánh chịu không nhất

thiết phải là yếu tố duy nhất để xác định có hay không có vi phạm cơ bản xảy ra [126,

tr.339-340]. Tác giả Ziegel nhấn mạnh thêm rằng, tổn hại không cần phải thực tế và

không cần bao gồm tổn thất thực tế và cũng không cần thiết phải đề cập đến bất lợi vật

chất mà bên bị vi phạm phải gánh chịu mà nghĩa là tổn hại về mặt pháp lý để phân biệt

với tổn hại thực tế, tức là làm cho người nào đó bị lấy đi những gì họ có quyền chiếm

hữu hoặc ngăn cản quyền được làm điều gì đó của người đó [121, tr.33]. Bên cạnh đó,

Enderlein và Maskow cho rằng thuật ngữ “tổn hại” nên được giải thích theo nghĩa

rộng, tức bao gồm cả thiệt hại thực tế và thiệt hại pháp lý và “không có lý do hợp lý để

chấp thuận giải thích thu hẹp” [106, tr.241]. Tòa án Ba Lan trong vụ Shoe leather cũng

đã nhấn mạnh rằng, theo Điều 25, tổn hại (có nghĩa là những gì bên bị vi phạm kỳ

vọng từ hợp đồng bị tước đi) không thể bằng tổn thất vì nó bao gồm hậu quả bất lợi

tiềm năng và thực tế do vi phạm hợp đồng gây ra [250].

Để xác định tính cơ bản của vi phạm hợp đồng, nếu chỉ tồn tại tổn hại thì chưa

đủ mà tổn hại phải đáng kể. Ban thư ký của UNCITRAL cũng đã nhấn mạnh yếu tố

này trong tài liệu bình luận Điều 25 của Ban thư ký rằng, việc xác định tổn hại có đáng

kể hay không phải dựa vào các tình huống cụ thể, ví dụ như căn cứ vào giá trị kinh tế

của hợp đồng hoặc thiệt hại kinh tế do vi phạm hợp đồng hoặc mức độ cản trở những

hoạt động khác của bên bị vi phạm [162]. Bình luận của Ban Thư ký, một lẫn nữa, cho

thấy yếu tố tổn hại đáng kể được quy định tại Điều 25 có nghĩa kinh tế rất rộng và “các

tình huống cụ thể” là cách để giải thích “tổn hại” đáng kể. Điều này dễ dẫn đến sự

không thống nhất trong áp dụng Công ước Viên, đi ngược với tinh thần của Công ước

là “khi giải thích Công ước, cần lưu ý ….đến thúc đẩy việc áp dụng thống nhất Công

ước” [11, Điều 7].

Thực tiễn, trong rất nhiều tranh chấp có liên quan đến xác định vi phạm cơ bản

hợp đồng theo Công ước Viên của tòa án, trọng tài của một số quốc gia thành viên

Công ước Viên cho thấy sự đa dạng trong vận dụng yếu tố “tổn hại đáng kể” để xác

định vi phạm cơ bản hợp đồng, cụ thể:

Page 68: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

63

(i) Tòa án, trọng tài xem tỷ lệ hàng hóa có chất lượng không phù hợp với hợp

đồng ở mức cao là tổn hại đáng kể

Vụ Delchi v. Rotorex [266]: Vào tháng 1/1988, Công ty Rotorex đồng ý bán

10.800 máy nén khí cho Công ty Delchi để sử dụng cho máy điều hòa trong phòng.

Trước khi ký kết hợp đồng, Rotorex gửi cho Delchi mẫu máy nén kèm theo chi tiết kỹ

thuật về hiệu suất sử dụng. Tuy nhiên, trong khi lô hàng thứ hai đang trên đường vận

chuyển cho Delchi, Delchi phát hiện rằng một số lượng lớn máy nén của lô hàng thứ

nhất có chất lượng không phù hợp với mẫu và tiêu chí kỹ thuật kèm theo. Cụ thể,

Rotorex phát hiện có đến 93% số máy nén điều hòa được giao có khả năng làm lạnh

yếu và tiêu thụ nhiều điện năng hơn so với hàng mẫu cùng chi tiết kỹ thuật kèm theo

hàng mẫu. Tòa phúc thẩm Liên bang cho rằng tỷ lệ 93% hàng hóa có chất lượng

không phù hợp quy định hợp đồng trong mối tương quan với tổng giá trị hợp đồng là

tổn hại rất đáng kể và vi phạm hợp đồng như vậy được coi là vi phạm cơ bản hợp

đồng [266].

Vụ “Cotton gin motes” [204]: Tranh chấp giữa người bán Singapo và người

mua Trung Quốc trong hợp đồng mua bán bông tạp chất, theo đó hai bên đã kí hợp

đồng mua bán 3.500 gói bông tạp chất, giao hàng làm hai chuyến. Thực hiện hợp

đồng, ở chuyến thứ nhất người bán giao 2.210 gói bông, sau khi giám định, cơ quan

giám định đã lập báo cáo trong đó chỉ ra rằng 77,47% lượng hàng hóa được giao có

chất lượng không phù hợp với quy định của hợp đồng. Hội đồng trọng tài đã cho rằng,

việc người bán giao hàng không tuân thủ quy định của hợp đồng với tỷ lệ không phù

hợp cao như đã nêu ở trên đã gây tổn hại đáng kể cho người mua và cấu thành vi

phạm cơ bản hợp đồng.

Vụ “Granite rock” [187]: Tranh chấp về hợp đồng mua bán đá granite giữa

người mua Đức và người bán Italia. Tòa án đã cho rằng việc người bán giao hàng

trong đó có 40% hàng không phù hợp về chất lượng đã đủ để cấu thành vi phạm cơ

bản hợp đồng. Căn cứ Điều 25 Công ước Viên, tòa án lập luận rằng, một sự vi phạm

hợp đồng được xem là cơ bản nếu nó gây ra tổn hại cho bên bị vi phạm một cách đáng

kể đến mức làm cho bên bị vi phạm bị tước đi những lợi ích họ kỳ vọng từ hợp đồng.

Chính vì thế, việc người mua chỉ sử dụng được 60% số lượng đá được giao, tức là

không sử dụng được 40% số lượng hàng không phù hợp về chất lượng là tổn hại đáng

kể mà người mua đã phải gánh chịu.

Page 69: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

64

(ii) Tòa án, trọng tài xem lợi nhuận bị mất đi, tổn hại về uy tín, quyền và lợi ích

pháp lý là tổn hại đáng kể khi xác định vi phạm cơ bản hợp đồng

Vụ “Rabbit skin” [209]: Tranh chấp giữa người bán Trung Quốc và người mua

Tây Ban Nha liên quan hợp đồng mua bán da thỏ tươi đông lạnh, theo đó người bán ký

hợp đồng cung cấp cho người mua 160.000 miếng da thỏ tươi đông lạnh. Hợp đồng

quy định phương thức thanh toán là L/C và luật áp dụng là Công ước Viên. Sau khi

hợp đồng có hiệu lực, người mua đã mở L/C theo quy định của hợp đồng nhưng người

bán đã không giao hàng cho người mua. Người mua đã khởi kiện người bán ra

CIETAC (Trung Quốc), yêu cầu hủy hợp đồng vì người bán có sự vi phạm cơ bản hợp

đồng. Khi xét xử vụ này, căn cứ vào Điều 25 Công ước Viên, CIETAC đã phán quyết

rằng, trong trường hợp này, việc người bán không giao hàng cho người mua đã làm

cho người mua hoàn toàn không thể đạt được mục đích căn bản của việc ký kết hợp

đồng với người bán. Hành vi của người bán đã hủy hoại chuỗi kinh doanh và làm ảnh

hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích pháp lý của người mua. Và như vậy người

bán đã tước đi của người mua những lợi ích mà người mua có quyền mong chờ từ hợp

đồng hay nói cách khác việc không giao hàng của người bán đã cấu thành vi phạm cơ

bản hợp đồng.

Trước thời điểm giải quyết hai vụ tranh chấp ở trên, trong một vụ tranh chấp

xảy ra vào năm 2005, quan điểm tương tự cũng được tìm thấy trong phán quyết của

Tòa án quận Padova (Ý) trong vụ Ostroznik savo [248]. Đây là tranh chấp giữa người

bán Slovenia và người mua Ý liên quan hợp đồng mua bán thỏ. Tòa án cho rằng,

không giao hàng sẽ cấu thành vi phạm cơ bản vì nó loại trừ khả năng người mua thu

được lợi nhuận từ hợp đồng.

Vụ “Sport clothing” [239]: Người bán Đức đã ký hợp đồng cung cấp cho người

mua Thụy Sỹ quần áo thể thao. Tuy nhiên, toàn bộ những bộ thể thao được bán cho

khách hàng của người mua sau lần giặt đầu tiên đã bị co lại từ 1 đến 2 cỡ (khoảng từ

10 đến 15%). Tòa án quận Landshut (Đức) đã kết luận rằng với việc quần áo bị co lại

10 đến 15% sau khi giặt, khách hàng hoàn toàn có thể trả lại hàng hoặc là không mua

hàng từ người mua nữa và điều này sẽ gây ra cho người mua những tổn hại đáng kể về

uy tín. Chính vì vậy, tòa án đã xác định việc người bán cung cấp hàng hóa như vậy là

một vi phạm cơ bản hợp đồng. Tương tự, vụ “Shoe” [230]: Tranh chấp giữa người

bán Italia và người mua Đức về hợp đồng mua bán giày. Người bán và người mua đã

Page 70: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

65

ký hợp đồng, theo đó người bán cung cấp giày cho người mua - một cửa hàng giày của

Đức, hàng được giao thành nhiều chuyến. Ở chuyến hàng cuối cùng, người bán đã

giao cho người mua 319 đôi giày, tuy nhiên khách hàng của người mua đã phàn nàn về

chất lượng của 35 đôi giày đã mua trong số 319 đôi giày được giao ở chuyến cuối

cùng. Tại phiên xét xử sơ thẩm, tòa án cho rằng người bán giao 35 đôi giày bị khiếm

khuyết trên 319 đôi là vi phạm hợp đồng, tuy nhiên vi phạm này của người bán chưa

đủ để cấu thành một vi phạm cơ bản hợp đồng để thỏa mãn điều kiện thực hiện chế tài

hủy hợp đồng theo Điều 49 Công ước Viên. Ở phiên phúc thẩm, người mua đã lập

luận rằng tỷ lệ giày khiếm khuyết phải dựa trên số lượng hàng đã thực bán chứ không

phải tổng số hàng đã giao và tỷ lệ này được xác định là 21,2%. Hội đồng xét xử cấp

phúc thẩm đã đồng tình với luận điểm này của người mua và cho rằng vi phạm của

người bán là vi phạm cơ bản hợp đồng do tỷ lệ hàng giao có khiếm khuyết ở mức cao

như vậy làm tổn hại đáng kể đến uy tín của người mua.

(iii) Tòa án, trọng tài không xem xét yếu tố tổn hại đáng kể khi xác định vi

phạm cơ bản hợp đồng

Trong rất nhiều vụ tranh chấp, khi xác định vi phạm cơ bản hợp đồng theo Điều

25 Công ước Viên, tòa án, trọng tài không xem xét yếu tố tổn hại đáng kể mà chỉ xem

xét trực tiếp đến hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm có tước đi

đáng kể những gì bên bị vi phạm kỳ vọng từ hợp đồng hay không. Đặc biệt là khi

người bán hoặc người mua không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng như không giao hàng,

giao hàng không đúng thời gian hoặc không thanh toán tiền hàng, không nhận hàng.

Thực tiễn xác định những gì bên bị vi phạm kỳ vọng từ hợp đồng có bị tước đi đáng kể

hay không sẽ được phân tích ở phần tiếp theo.

Từ những phân tích trên có thể rút ra một số nhận xét sau:

(1) Chưa có một cơ sở pháp lý vững chắc để khẳng định rằng tổn hại theo tinh

thần của Điều 25 Công ước Viên là gì? Tuy nhiên, từ lịch sử soạn thảo điều khoản này,

trên cơ sở quan điểm của một số học giả thì người viết cho rằng thuật ngữ “tổn hại”

được sử dụng trong Điều 25 có nghĩa rất rộng, không chỉ bao gồm tổn thất hoặc thiệt

hại kinh tế (tổn thất vật chất), tổn thất hoặc thiệt hại phi vật chất (uy tín kinh doanh,

danh dự) mà còn thiệt hại pháp lý (quyền lợi của bên bị vi phạm bị ảnh hưởng). Điều

này dễ dẫn tới sự thiếu thống nhất, đa dạng và đôi khi là “cảm tính” và “tùy tiện” trong

việc giải thích nội hàm của “tổn hại” là yếu tố tiên quyết xác định tính cơ bản của vi

Page 71: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

66

phạm hợp đồng theo Công ước Viên. Với nội hàm của “tổn hại” quá rộng như vậy,

phương pháp có sức thuyết phục nhất là không xem tổn hại như là yếu tố bắt buộc, tiên

quyết khi xác định tính cơ bản của vi phạm hợp đồng mà xem xét yếu tố “tổn hại” chỉ

là “bộ lọc” cho các vụ tranh chấp có hành vi vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng nhưng

không có tổn hại nào xảy ra [87, tr.211]. Cách quy định yếu tố “tổn hại” như hiện nay

của Công ước Viên sẽ làm cho việc xác định tính cơ bản của hành vi vi phạm trở nên

phức tạp hơn vì không thể xem xét trực tiếp, đánh giá trực tiếp vào “những gì bên bị vi

phạm kỳ vọng từ hợp đồng” hay những lợi ích mà bên bị vi phạm kỳ vọng từ hợp đồng

có bị tước đi đáng kể với ý nghĩa là hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng có tính

nghiêm trọng hay không mà phải xem xét có “tổn hại” đáng kể hay không để từ đó

mới xác định hậu quả của hành vi vi phạm trong mối tương quan với những gì bên bị

vi phạm kỳ vọng từ hợp đồng bị tước đi.

(2) Thực tiễn cho thấy, tòa án và trọng tài đã đồng nhất tỷ lệ hàng được giao có

chất lượng không phù hợp ở mức cao với tổn hại đáng kể mà người mua phải gánh

chịu. Cách xử lý này của tòa án và trọng tài, theo người viết, chưa thực sự hợp lý bởi

các lẽ sau:

+ Khi người bán giao hàng có chất lượng không phù hợp hợp đồng thì tỷ lệ

hàng hóa không phù hợp có thể xem như là sự tổn thất, mất mát, giảm sút giá trị của

hàng hóa và đó là tổn hại mà người mua phải gánh chịu. Tuy nhiên, hàng hóa có chất

lượng không phù hợp, trong một số trường hợp nhất định, có thể sử dụng được, chưa

đến mức phải thay thế hàng hóa thì người mua hoàn toàn có thể yêu cầu người bán

giảm giá hàng hóa để bù đắp cho phần không phù hợp mà không cần kết luận đó là vi

phạm cơ bản hợp đồng để áp dụng chế tài hủy hợp đồng;

+ Tỷ lệ hàng hóa không phù hợp với hợp đồng với mỗi tình huống thực tiễn

khác nhau là không giống nhau. Vì vậy, tổn hại do việc giao hàng không phù hợp với

hợp đồng cũng không giống nhau.

Tòa án và Trọng tài lại chỉ dựa vào việc hàng hóa không phù hợp quy định hợp

đồng với tỷ lệ cao (khoảng 90%) để kết luận là tổn hại đáng kể và coi đó là vi phạm cơ

bản hợp đồng. Đối với tỷ lệ hàng không phù hợp quy định hợp đồng ở mức thấp

(khoảng 25%) thì Tòa án và/hoặc trọng tài lại xem như chưa đủ “đáng kể”. Điều này

đã được chứng minh qua vụ Frozen Meat [257] là tranh chấp hợp đồng mua thịt đông

lạnh giữa người bán Đức và người mua Thụy Sĩ, mặc dù 25% chất lượng thịt đông

Page 72: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

67

lạnh không phù hợp với quy định trong hợp đồng, thậm chí thịt đông lạnh quá béo và

ướt, giá trị thịt đông lạnh giảm đi 25% tương ứng nhưng Tòa án tối cao (Thụy Sĩ) phán

quyết rằng tổn hại đó là chưa đủ “đáng kể” và hành vi vi phạm hợp đồng của người

bán không cấu thành một sự vi phạm cơ bản hợp đồng.

+ Việc tòa án và trọng tài căn cứ vào tỷ lệ không phù hợp về chất lượng của

hàng hóa là chưa thực sự thuyết phục, đặc biệt khi mà hàng hóa đó không bán lại được

dù tỷ lệ không phù hợp về chất lượng là không cao, thậm chí rất thấp. Trong trường

hợp này, mặc dù sự không phù hợp của hàng với quy định của hợp đồng ở mức độ

thấp nhưng nếu người mua đã không bán được hàng trong điều kiện thương mại bình

thường mà phải bán thanh lý thì điều này cũng có thể gây ra những tổn hại lớn về

doanh thu và lợi nhuận cho người mua. Từ đó, câu hỏi đặt ra là việc lấy căn cứ mức độ

hay tỷ lệ của sự không phù hợp của hàng hóa so với quy định của hợp đồng liệu có

thực sự hợp lý không bởi vì mức độ không phù hợp có thể rất thấp nhưng hàng vẫn

không thể bán được, tức là mục đích bán lại hàng hóa không đạt được.

Ngoài ra, cũng cần xem xét đến uy tín của người mua trong những trường hợp

này có bị giảm sút hoặc có những tổn hại đáng kể về uy tín của người mua hay không.

Chẳng hạn, vì hàng hóa bị tổn thất hoặc chất lượng không phù hợp, dù với tỷ lệ như

thế nào, mà khách hàng của người mua trả lại hàng hoặc không mua hàng từ người

mua thì hành vi vi phạm này có bị coi là vi phạm cơ bản hợp đồng hay không? Ngay

chính tòa án của các quốc gia thành viên Công ước cũng chưa có câu trả lời thỏa đáng

cho vấn đề này.

(3) Giao hàng, giao chứng từ liên quan đến hàng và thanh toán tiền hàng, nhận

hàng là những nghĩa vụ cơ bản của người bán và người mua trong hợp đồng. Vì vậy,

một bên không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng như không giao hàng, không thanh toán

tiền hàng, không nhận hàng thì tòa án, trọng tài đều xem hành vi vi phạm này thỏa

mãn yếu tố tước đi những gì bên kia kỳ vọng từ hợp đồng và các bên đều có đủ khả

năng tiên liệu được hậu quả này. Đối với những hành vi vi phạm hợp đồng này, tòa án,

trọng tài đã không xem xét đến có tồn tại tổn hại đáng kể hay không mà chỉ xem xét

những gì bên bị vi phạm kỳ vọng từ hợp đồng có còn hay không.

Điều này cũng phù hợp với một số văn bản có tính chất quốc tế khác như PICC

và PECL. Các văn bản này không quy định “tổn hại” như là yếu tố tiên quyết cấu

Page 73: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

68

thành không thực hiện cơ bản hợp đồng mà dựa vào hậu quả “tước đi đáng kể những

gì bên kia có quyền kỳ vọng từ hợp đồng” của hành vi vi phạm.

Chính từ những khó khăn, bất cập trong việc sử dụng tổn hại là yếu tố bắt buộc,

tiên quyết theo quy định tại Điều 25 Công ước Viên để xác định vi phạm cơ bản hợp

đồng dễ dẫn đến sự thiếu thống nhất của tòa án, trọng tài khi nhìn nhận vấn đề này,

người viết cho rằng, tổn hại không nên là nhân tố quyết định để xác định tính cơ bản

của vi phạm hợp đồng mà thay vào đó nên dựa vào những gì mà các bên kỳ vọng từ

hợp đồng có bị tước đi đáng kể hay không, nói cách khác lợi ích mong muốn và kỳ

vọng đạt được của các bên khi xác lập hợp đồng MBHHQT có bị tước đi đáng kể hay

không. Sự ảnh hưởng nghiêm trọng của hành vi vi phạm hợp đồng đến kỳ vọng của

bên bị vi phạm khi xác lập hợp đồng MBHHQT mới nên là nhân tố quyết định để xác

định tính cơ bản của vi phạm hợp đồng bởi không thực hiện hợp đồng như không giao

hàng, không thanh toán hay giao hàng không đúng thời gian, giao hàng có chất lượng

không phù hợp với hợp đồng sẽ làm cho bên bị vi phạm bị tước đi lợi ích kỳ vọng từ

hợp đồng [145, tr.77].

3.2.2. Những gì bên bị vi phạm có quyền kỳ vọng từ hợp đồng bị tước đi đáng

kể

Những gì bên bị vi phạm có quyền kỳ vọng từ hợp đồng bị tước đi đáng kể là

hệ quả của tổn hại đáng kể do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra, là yếu tố đóng vai trò

quan trọng trong việc xác định vi phạm cơ bản hợp đồng bởi nó thể hiện tính nghiêm

trọng của hậu quả do vi phạm hợp đồng gây ra theo Điều 25 Công ước Viên. Không

phải cứ vi phạm hợp đồng gây “tổn hại” là cấu thành vi phạm cơ bản mà tổn hại phải

đến mức “tước đi đáng kể những gì bên bị vi phạm kỳ vọng từ hợp đồng”, tức là tính

nghiêm trọng của “tổn hại” do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra phải được xem xét

trong mối tương quan với hệ quả của “tổn hại” là “tước đi đáng kể những gì bên bị vi

phạm kỳ vọng từ hợp đồng”.

Các quan điểm đều cho rằng, nếu bên bị vi phạm bị tước đi lợi ích của việc thực

hiện hợp đồng thì tổn hại được coi là đáng kể [142, tr.59; 126, tr.340; 165, tr.321]. Tác

giả Zeller cũng đồng quan điểm này và cho rằng “tổn hại đáng kể vượt ra ngoài khoản

tiền bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 74. Đơn giản, tổn hại không bằng tiền bồi

thường thiệt hại” [89, tr.226]. Tác giả Will cũng có có quan điểm tương tự [132]. Cách

diễn đạt của Điều 25 không đề cập đến mức độ tổn hại mà thay vào đó là tầm quan

Page 74: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

69

trọng của lợi ích mà hợp đồng và nghĩa vụ của các bên tạo nên [116], hay nói cách

khác, sự tồn tại của lợi ích, mong muốn hợp pháp là yếu tố duy nhất để xác định những

gì bên bị vi phạm kỳ vọng bị tước đi đáng kể hay không [145, tr.53]. Schlechtriem và

Butler cũng đồng quan điểm khi cho rằng, đó không phải mức độ nghiêm trọng khách

quan của vi phạm hợp đồng và không phải là mức độ tổn hại mà quan trọng là lợi ích

của các bên từ hợp đồng [143, tr.98].

Về mặt lý luận cũng như pháp luật thực định, chưa có câu trả lời cuối cùng và

thỏa đáng cho việc xác định những gì bên bị vi phạm kỳ vọng từ hợp đồng là gì và có

bị tước đi đáng kể do hành vi vi phạm hợp đồng hay không. Mỗi tình huống vi phạm

hợp đồng cụ thể sẽ đem đến những hậu quả pháp lý không giống nhau, có khi kéo theo

trách nhiệm bồi thường thiệt hại, giảm giá hay nặng nề hợp là hủy hợp đồng. Việc xác

định mức độ tổn hại như thế nào để thỏa mãn quy định tại Điều 25 của Công ước tùy

thuộc rất nhiều vào luận giải, phán quyết của tòa án, trọng tài có thẩm quyền khi giải

quyết các tranh chấp có liên quan.

Kỳ vọng từ hợp đồng là nội dung chủ yếu để xác định liệu một vi phạm hợp

đồng gây tổn hại đáng kể có bị coi là vi phạm cơ bản hợp đồng hay không [82, tr.102].

Nói cách khác, sự tước đi đáng kể những gì bên bị vi phạm kỳ vọng từ hợp đồng có

thể được xác định trong khuôn khổ tổn hại xảy ra mà bên bị vi phạm phải gánh chịu

đối với kỳ vọng từ hợp đồng của bên bị vi phạm hoặc không cần có tổn hại. Vi phạm

hợp đồng tới mức nào thì bị coi là vi phạm cơ bản phụ thuộc vào các yếu tố liên quan

để đạt được những gì bên bị vi phạm kỳ vọng từ hợp đồng [107, tr.72]. Câu hỏi đặt ra

là cơ sở nào để xác định những gì bên bị vi phạm có quyền kỳ vọng từ hợp đồng? Đây

là vấn đề pháp lý phức tạp bởi lẽ việc xác định kỳ vọng của bên bị vi phạm từ hợp

đồng không chỉ dựa vào giải thích nội dung hợp đồng mà còn dựa vào thực tiễn, tập

quán hoặc những quy định bổ sung của Công ước [11, Điều 9].

Bên bị vi phạm có quyền kỳ vọng nhận được sự thực hiện hợp đồng như đã hứa

của bên vi phạm nhưng điều này còn phụ thuộc vào cam kết trong hợp đồng của bên vi

phạm. Vì vậy, giả sử bên bị vi phạm bị tước đi cơ hội thu được khoản lợi nhuận cụ thể

mà anh ta kỳ vọng nhận được từ việc thực hiện hợp đồng của bên vi phạm nhưng bên

bị vi phạm lại không thông báo trong hợp đồng cho bên vi phạm biết về kỳ vọng này.

Có thể nói rằng, bên bị vi phạm có quyền kỳ vọng lợi ích đó từ hợp đồng hay không?.

Đành rằng, hợp đồng là cơ sở xác định kỳ vọng của bên bị vi phạm, hay nói cách khác

Page 75: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

70

kỳ vọng của bên bị vi phạm phải được giải thích, xác định dựa vào hợp đồng. Điều này

không đồng nghĩa với việc các bên phải phát biểu rõ ràng mình kỳ vọng gì trong hợp

đồng. Tuy nhiên, nếu có được những thỏa thuận rõ ràng về mong muốn hay kỳ vọng

của các bên trong hợp đồng thì việc xác định có hay không có vi phạm cơ bản hợp

đồng trong trường hợp này sẽ trở nên dễ dàng hơn bởi Điều 25 cũng như các quy định

khác của Công ước không đề cập gì đến cơ sở xác định vấn đề này. Về nguyên tắc, lợi

ích kỳ vọng của các bên là tiêu chí khách quan để xác định vi phạm cơ bản hợp đồng

vì chính hợp đồng xác định nghĩa vụ của các bên và hợp đồng cũng là cơ sở xác định

tầm quan trọng của các nghĩa vụ đó [82].

Đối với việc xác định những gì các bên kỳ vọng từ hợp đồng, chắc chắn các bên

dễ dàng xác định khi nào và trong trường hợp nào thì vi phạm hợp đồng tước đi đáng

kể những gì bên bị vi phạm kỳ vọng từ hợp đồng là cơ bản. Tuy nhiên, liệu các cuộc

đàm phán, tập quán hoặc các sự kiện khác xảy ra sau khi ký kết hợp đồng và không

được đề cập đến trong hợp đồng có thể được sử dụng để xác định những gì kỳ vọng từ

hợp đồng hay không. Câu hỏi ở đây là, các điều khoản hợp đồng có phải là nguồn duy

nhất để xác định những gì kỳ vọng từ hợp đồng của bên bị vi phạm?.

Thuật ngữ “under the contract” được sử dụng trong Điều 25, về nguyên tắc, đề

cập đến tất cả các điều khoản của hợp đồng, dù là được quy định một cách rõ ràng

hoặc ngầm định [93, tr.97]. Kỳ vọng từ hợp đồng của các bên không chỉ được xác định

dựa vào ngôn ngữ của hợp đồng mà còn căn cứ vào những tình huống xung quanh

quan hệ hợp đồng giữa các bên. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là việc đánh giá

sự tước đi những gì các bên kỳ vọng sẽ phụ thuộc vào hoàn cảnh trong tình huống cụ

thể, thậm chí những tình huống đó diễn ra sau khi ký kết hợp đồng. Công ước Viên

không nhằm nâng cao thẩm quyền của Thẩm phán mà thay vào đó yêu cầu họ phải xác

định những gì các bên kỳ vọng từ hợp đồng trong khuôn khổ hợp đồng và hoàn cảnh

xung quanh quan hệ hợp đồng giữa các bên [85].

Thực tiễn vận dụng của tòa án, trọng tài của một số quốc gia thành viên Công

ước Viên cho thấy có hai xu hướng khi xác định những gì bên bị vi phạm kỳ vọng hợp

đồng có bị tước đi đáng kể hay không, cụ thể:

- Xu hướng 1: Hành vi không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng của bên vi phạm

luôn dẫn đến hậu quả là những gì bên bị vi phạm kỳ vọng từ hợp đồng bị tước đi đáng

kể cho dù có hay không có tổn hại xảy ra

Page 76: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

71

(i) Người bán không giao hàng

Trong thực tiễn thực hiện hợp đồng MBHHQT, giao hàng, dường như, luôn bị

tòa án, trọng tài của một số quốc gia thành viên Công ước coi là “nghĩa vụ cơ bản của

người bán” [196], vì thế, khi người bán vi phạm nghĩa vụ giao hàng thì coi như là vi

phạm cơ bản hợp đồng và xem như đủ thỏa mãn điều kiện “tước đi của người mua

những gì người mua kỳ vọng từ hợp đồng”.

Vụ “Compound fertilizer” [196]: Tranh chấp giữa người mua Australia và

người bán Trung Quốc về hợp đồng cung cấp phân bón tổng hợp. Khi thực hiện hợp

đồng, người bán đã thông báo cho người mua (bằng fax) rằng, họ không thể giao hàng

vì không tìm được nguồn hàng cung cấp. Người mua đã không chấp nhận lý do này và

đã kiện người bán ra CIETAC (Trung Quốc). Hội đồng trọng tài thuộc CIETAC đã kết

luận người bán đã vi phạm cơ bản hợp đồng (theo tinh thần quy định tại Điều 25 Công

ước Viên) do việc người bán không giao hàng đã thật sự tước đi những quyền lợi mà

người mua kỳ vọng từ hợp đồng đã ký kết.

Vụ “Cheese” [235]: Người bán Cộng hòa Séc và người mua Đức ký một hợp

đồng mua bán 300 tấn pho mát, giao hàng làm 15 chuyến, mỗi chuyến 20 tấn. Hợp

đồng cũng quy định thanh toán trả trước cho từng chuyến hàng. Sau khi chuyến hàng

thứ nhất thực hiện thành công, người mua đã thanh toán chuyến hàng thứ hai nhưng

người bán đã không giao hàng. Người mua đã kiện ra hội đồng trọng tài Hamburg

(Đức) yêu cầu trả lại tiền hàng đã thanh toán cùng khoản lãi trên số tiền đó và hủy hợp

đồng. Hội đồng trọng tài căn cứ Điều 45(1)(a) và Điều 49(1)(a) đã cho rằng người mua

có quyền tuyên bố hủy hợp đồng cho chuyến hàng thứ hai do người bán không giao

hàng đã tước đi quyền lợi mà người mua có quyền mong đợi từ hợp đồng.

(ii) Người bán không giao chứng từ liên quan đến hàng hóa cho người mua

Theo quy định của Công ước, người bán không chỉ có nghĩa vụ giao hàng mà

còn phải chuyển giao chứng từ liên quan đến hàng hóa và quyền sở hữu về hàng hóa

cho người mua [11, Điều 30]. Tuy nhiên, trong thực tiễn, người bán đã vi phạm nghĩa

vụ này và vì vậy tòa án và trọng tài một số quốc gia thành viên Công ước coi hành vi

vi phạm này của người bán đã tước đi những gì người mua kỳ vọng từ hợp đồng, thỏa

mãn yếu tố cấu thành vi phạm cơ bản quy định tại Điều 25.

Vụ Fluorite [210]: Tranh chấp giữa người bán Trung Quốc và người mua Đức.

Trong tranh chấp này, trọng tài CIETAC (Trung Quốc) cho rằng người bán đã vi phạm

Page 77: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

72

cơ bản hợp đồng vì người bán không xuất trình tài liệu trong khoảng thời gian gia hạn

của L/C. Theo trọng tài, hợp đồng quy định thanh toán bằng L/C vì thế nghĩa vụ cơ

bản của người bán là cung cấp tất cả tài liệu đủ điều kiện và chuyển quyền sở hữu cho

người mua. Tuy nhiên, người bán đã vi phạm quy định này. Hợp đồng quy định nếu

người bán không xuất trình tài liệu trong thời hạn L/C thì xem như người bán vi phạm

hợp đồng. Trọng tài nhấn mạnh thêm, trong thực tế, việc không xuất trình chứng từ

trong thời hạn quy định trong hợp đồng đã dẫn đến tước đi những gì người mua kỳ

vọng từ hợp đồng – được thanh toán hay hủy mục đích của hợp đồng, vì vậy việc tiếp

tục thực hiện hợp đồng trở nên vô nghĩa đối với người mua. Việc người bán không

xuất trình chứng từ và chuyển quyền sở hữu hàng hóa thỏa mãn quy định về vi phạm

cơ bản hợp đồng tại Điều 25 Công ước Viên.

Tương tự, vụ Medical equipment [262]: Người bán Thụy Sĩ và người mua

Ucraina ký hợp đồng mua bán thiết bị y tế nhưng người bán đơn phương thay đổi

phương thức vận tải (vận tải đường biển thay cho vận tải hàng không quy định trong

hợp đồng) làm cho thời gian vận tải dài hơn và người bán không giao chứng từ vận tải

đúng hạn quy định trong hợp đồng (đơn bảo hiểm và chứng nhận chất lượng). Điều

này đã dẫn đến hàng hóa không thể thông quan và người mua không thể nhận hàng ở

cảng Odessa theo như điều khoản hợp đồng. Vì vậy, trọng tài Ucraina phán quyết

rằng người bán đã vi phạm cơ bản hợp đồng.

(iii) Người mua không thanh toán tiền hàng

Hành vi không thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền hàng của người mua thường

thể hiện ở việc người mua không mở L/C theo quy định của hợp đồng hoặc trong thời

gian mà người bán đã gia hạn thêm. Nghĩa vụ mở L/C khi hợp đồng quy định thanh

toán bằng phương thức này là nghĩa vụ cơ bản nhất của người mua trong hợp đồng

MBHHQT [185]. Vì vậy, việc không thanh toán tiền hàng cũng được tòa án và trọng

tài xem như đã tước đi những gì người bán kỳ vọng từ hợp đồng.

Vụ tranh chấp “Hat” [186] giữa người bán Trung Quốc và người mua Hoa Kỳ

là một ví dụ. Người bán và người mua đã thực hiện 14 hợp đồng mua bán mũ, trong đó

những hợp đồng đầu, người mua đã thanh toán đầy đủ nhưng các hợp đồng về sau,

người mua đã không thanh toán mặc dù người bán đã yêu cầu nhiều lần. Hai bên thực

hiện thêm một hợp đồng nhưng lần này người mua cũng không thanh toán dẫn đến

thực tế là người bán tuyên bố hủy hợp đồng. Người bán kiện người mua ra CIETAC

Page 78: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

73

yêu cầu người mua trả những khoản nợ quá hạn và các chi phí có liên quan. Hội đồng

trọng tài thuộc CIETAC cho rằng người bán đã giao hàng và thực hiện các nghĩa vụ

của hợp đồng, người mua đã nhận hàng nhưng không thanh toán tiền hàng. Hội đồng

trọng tài phán quyết rằng, căn cứ Điều 25 Công ước Viên, việc người mua không

thanh toán tiền hàng đã cấu thành một vi phạm cơ bản hợp đồng vì đã tước đi của

người bán những gì người bán kỳ vọng từ hợp đồng – khoản thanh toán tiền hàng.

Tương tự, vụ tranh chấp “New Zealand raw wool” [205] là một minh chứng

khác về việc người mua không thanh toán tiền hàng đã cấu thành một vi phạm cơ bản

hợp đồng theo phán quyết của Hội đồng trọng tài thuộc CIETAC. Trong tranh chấp

này, người bán Niu Di Lân và người mua Trung Quốc đã ký kết hợp đồng mua bán len

thô. Hợp đồng quy định thanh toán bằng L/C. Thực hiện hợp đồng, người bán đã giao

hàng nhưng người mua không mở L/C mặc dù người bán đã nhiều lần yêu cầu người

mua mở L/C. Để giảm thiểu thiệt hại, người bán đã bán hàng hóa cho khách hàng khác

và kiện người mua ra CIETAC với lập luận rằng người mua không mở L/C là cấu

thành vi phạm cơ bản hợp đồng theo Điều 25 Công ước Viên và yêu cầu bồi thường

thiệt hại theo Điều 75 Công ước Viên. Hội đồng trọng tài thuộc CIETAC cho rằng ở

đây, hành vi không mở L/C của người mua đã làm cho người bán bị tước đi lợi ích kỳ

vọng từ hợp đồng nên việc người mua không mở L/C là hành động không thực hiện

nghĩa vụ của hợp đồng, vì vậy phán quyết đây là vi phạm cơ bản hợp đồng.

Trong vụ tranh chấp “Styrene monomer” [200], người bán Singapo và người

mua Trung Quốc đã ký kết hợp đồng mua bán 3.000 tấn hóa chất Styrene. Điều khoản

thanh toán hợp đồng quy định thanh toán bằng L/C không hủy ngang trong vòng 90

ngày kể từ ngày phát hành vận đơn. Hợp đồng cũng quy định nếu như L/C không được

mở trong thời gian quy định, người mua sẽ bị coi là vi phạm hợp đồng và người bán có

quyền gia hạn thời gian mở L/C hay tuyên bố hủy hợp đồng và đòi bồi thường thiệt

hại. Sau khi hợp đồng có hiệu lực, người mua đã yêu cầu người bán giảm giá hàng hóa

đồng thời hoãn giao hàng và từ chối mở L/C theo đúng quy định tại hợp đồng với lý

do giá thị trường đã thay đổi. Để thực hiện hợp đồng, người bán đã thương lượng với

người mua và thể hiện quan điểm rằng họ sẽ giảm giá hàng bán, tuy nhiên, họ đã

không đạt được thỏa thuận này do người mua đã không thể hiện thiện chí và đưa ra

những đòi hỏi vô cùng hà khắc. Xtiren là một loại hóa chất dễ dàng bị polyme hóa

trong điều kiện nhiệt độ cao trong thời gian dài, vì thế, để đảm bảo cho lợi ích của cả

Page 79: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

74

hai bên, người bán đã phải tìm cách giảm thiểu thiệt hại bằng việc bán hàng hóa đó

cho bên thứ ba. Người bán cho rằng việc người mua không thực hiện nghĩa vụ quy

định tại hợp đồng đã cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng và người mua phải chịu trách

nhiệm về những tổn thất do hành vi vi phạm gây ra. Trước những luận điểm của người

bán, người mua phản bác lại rằng họ không từ chối mở L/C mà chỉ đơn thuần là yêu

cầu trì hoãn thời gian mở L/C, điều này không phải là vi phạm cơ bản hợp đồng vì

người mua đã không tước đi những gì người bán có quyền kỳ vọng từ hợp đồng. Hội

đồng trọng tài thuộc CIETAC cho rằng người mua đã vi phạm hợp đồng do không mở

L/C để thanh toán tiền hàng theo thời hạn quy định tại hợp đồng. Ngay cả khi người

bán đồng ý gia hạn thời gian mở L/C, người mua cũng không thực hiện. Do đó, căn cứ

Điều 25 Công ước Viên, Hội đồng trọng tài thuộc CIETAC lập luận rằng, hành động

này của người mua đã tước đi của người bán lợi ích mà người bán có quyền kỳ vọng

từ việc thực hiện hợp đồng, người mua đã vi phạm cơ bản hợp đồng và người bán có

quyền hủy hợp đồng và yêu cầu các khoản bồi thường thiệt hại.

Tương tự các vụ tranh chấp nói trên, trọng tài cũng xác định việc người mua

không thanh toán tiền hàng (không mở L/C) theo quy định của hợp đồng hoặc trong

thời gian gia hạn thêm là vi phạm cơ bản hợp đồng trong nhiều vụ tranh chấp: Vụ

Chrome plating production line equipment [187], vụ Steel coil [197], vụ Chemicals

[211], vụ Mono Ethylene glycol [207], vụ Polyester spinning machine [190], vụ

Alumina [194], vụ Peanut kernel [212], vụ Australian raw wool [203], vụ Yam-dyed

fabric [191], vụ Childrens jackets [198].

(v) Người mua không nhận hàng

Việc người mua không nhận hàng cũng được xem như thỏa mãn yếu tố tước đi

những gì bên bị vi phạm kỳ vọng từ hợp đồng, từ đó cấu thành vi phạm cơ bản hợp

đồng.

Vụ tranh chấp Mung bean [192] giữa người bán Trung Quốc và người mua

Thụy Sỹ là một minh chứng. Trong vụ tranh chấp này, người bán và người mua ký

hợp đồng mua bán đậu xanh theo điều kiện giao hàng FOB. Thực hiện hợp đồng,

người bán đã tập kết hàng ở cảng bốc hàng, và thông báo với người mua rằng hàng hóa

đã sẵn sàng để giao theo điều kiện quy định tại hợp đồng. Tuy nhiên, người mua đã

không đưa tàu đến nhận hàng mặc dù hạn cuối thời gian giao hàng đã hết và ngay cả

khi người bán đã gia hạn. Sau đó, người mua đã gửi thông báo về việc họ sẽ không

đưa tàu đến nhận hàng. Do đó, người bán đã phải bán lại hàng hóa cho khách hàng

Page 80: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

75

khác và kiện người mua ra CIETAC yêu cầu hủy hợp đồng. Hội đồng trọng tài ra phán

quyết rằng, vì hợp đồng giao hàng theo điều kiện FOB, người mua có trách nhiệm

trong việc thuê tàu và điều tàu đến đúng thời gian, địa điểm quy định để nhận hàng.

Việc tàu của người mua không đến chứng tỏ người mua không thực hiện nghĩa vụ của

mình theo Điều 60 Công ước Viên khiến người bán không thể giao hàng ngay cả sau

khi người bán đã gia hạn thêm cho người mua. Vì vậy, việc người mua không điều tàu

đến cảng quy định để nhận hàng khiến người bán không thể thực hiện được nghĩa vụ

của mình theo hợp đồng đã cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng chiểu theo tinh thần

của Điều 25 Công ước Viên. Tương tự, vụ Horse bean [206], tranh chấp giữa người

bán Trung Quốc và người mua Pháp, theo đó trọng tài CIETAC (Trung Quốc) phán

quyết rằng người mua không sắp xếp để nhận hàng là vi phạm cơ bản hợp đồng theo

Điều 25 Công ước Viên.

- Xu hướng 2: Dựa vào mục đích mua hàng để xác định những gì người mua có

quyền kỳ vọng từ hợp đồng có bị tước đi hay không trong trường hợp người bán giao

hàng có chất lượng không phù hợp với hợp đồng

Tuy Công ước Viên không quy định trực tiếp nội hàm của cụm từ “những gì kỳ

vọng từ hợp đồng” sử dụng tại Điều 25 là gì nhưng Công ước Viên dành khá nhiều

điều khoản đề quy định về sự phù hợp của hàng hóa với hợp đồng, đặc biệt khi mục

đích sử dụng của hàng hóa không được đáp ứng. Từ đó có thể thấy, trong quan hệ mua

bán hàng hóa giữa người bán và người mua, điều mà người bán và người mua quan

tâm nhất là mục đích mua hàng. Mà mục đích mua hàng, thông thường, là để bán lại

nhằm tìm kiếm lợi nhuận hoặc để sử dụng cho mục đích cụ thể nào đó.

Hàng hóa luôn được mua bán vì một mục đích cụ thể nào đó. Vì vậy, khi người

bán giao hàng có chất lượng không phù hợp với hợp đồng, nếu các bên không có thỏa

thuận cụ thể về mục đích mua hàng thì tòa án, trọng tài thường xem xét mục đích mua

hàng ở 2 khía cạnh: mua hàng để bán lại (khả năng thương mại của hàng) hoặc mua

hàng nhằm mục đích sử dụng cụ thể (khả năng sử dụng của hàng).

(i) Đối với mua hàng để bán lại (khả năng thương mại của hàng)

Khi người bán giao hàng có chất lượng không phù hợp hợp đồng quy định, tòa

án thường kết luận hành vi vi phạm đó – giao hàng nhưng hàng hóa không thể sử dụng

để bán lại là vi phạm cơ bản hợp đồng.

Vụ tranh chấp “Frozen vegetable” [236] về hợp đồng mua bán rau đông lạnh

giữa người bán Tây Ban Nha và người mua Đức cũng là một trong những ví dụ điển

Page 81: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

76

hình cho hành vi giao hàng có chất lượng không phù hợp quy định hợp đồng dẫn đến

mục đích bán lại hàng hóa của người mua không thể đạt được. Trong vụ tranh chấp

này, người bán đã giao hàng cho người mua, trong số hàng được giao có 36% hàng

hóa bị nát và không thế bán được cho khách hàng. Tòa án quận München (Đức) đã cho

rằng vi phạm đó của người bán là vi phạm cơ bản hợp đồng và người mua không cần

thiết phải cố gắng bán lại hàng hóa với giá thấp hơn. Do đó, việc hủy hợp đồng của

người mua là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 49 Công ước Viên.

Trong vụ tranh chấp Sacovini/M Marrazza v. Les fils de Henri Ramel [216],

người bán Ý - Công ty Sacovini có địa điểm kinh doanh tại Ý – đã ký vài hợp đồng

vào năm 1988 để bán rượu cho người mua Pháp – Công ty chuyên kinh doanh rượu,

nhưng người bán đã cho thêm đường vào rượu. Tòa án tối cao của Pháp cho rằng, vi

phạm của người bán Ý là vi phạm cơ bản hợp đồng vì rượu do công ty này cung cấp

không có khả năng bán được trên thị trường Pháp. Hơn nữa, việc người bán cho thêm

đường vào rượu đã vi phạm quy định về rượu của Pháp và ảnh hưởng tới chất lượng

của rượu. Hậu quả là rượu không thể tiêu thụ tại Pháp – mục đích mua hàng của

người mua Pháp và hành vi của người bán trong việc giao hàng như vậy đã dẫn đến

việc người mua Pháp không thể khắc phục được khả năng bán lại lô rượu nói trên tại

thị trường Pháp. Tương tự, vụ Used shoes [220] tranh chấp giữa người bán Đức và

người mua Uganda, theo đó người bán giao hàng không phù hợp với hợp đồng. Điều

này đã chứng minh bởi văn thư của Cơ quan tiêu chuẩn quốc gia Uganda, theo đó giày

trong tình trạng xấu và không vệ sinh, không được chấp nhận đối với thị trường

Uganda và không thể bán lại trên thị trường Uganda. Vì vậy, tòa án quận Franfurt

(Đức) đã phán quyết vi phạm của người bán là vi phạm cơ bản hợp đồng.

Vụ tranh chấp “Shanghai Anlili International Trading Co. Ltd. v. J & P Golden

Wings Corp” [193] , người bán Pháp và người mua Trung Quốc đã ký hợp đồng mua

bán 13.000 chai rượu gồm 6 loại khác nhau, giao hàng làm 2 chuyến. Thực hiện hợp

đồng, người bán đã giao chuyến hàng thứ nhất gồm 1000 chai rượu. Người mua nhận

hàng và phát hiện ra hàng được giao không phù hợp quy định của hợp đồng. Người

mua cho rằng người bán đã vi phạm cơ bản hợp đồng, cho nên sau khi thương lượng

không thành, đã kiện ra Tòa án nhân dân Thượng Hải (Trung Quốc) yêu cầu hủy hợp

đồng và đòi bồi thường thiệt hại. Người bán đã lập luận rằng, vì người mua không

phản đối chất lượng hàng hóa trong thời gian cho phép sau khi nhận được chuyến hàng

Page 82: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

77

đầu tiên nên người mua được coi là đã chấp nhận hàng. Người mua không phản đối

chuyến hàng đầu tiên cho đến tận khi người bán đã gửi chuyến hàng thứ hai và yêu cầu

thanh toán cho chuyến hàng này. Bởi vì người mua không thanh toán phần còn lại,

người bán đã tự xử lý chuyến hàng thứ hai nhằm giảm thiểu thiệt hại. Tòa án đã phán

quyết về chuyến hàng đầu tiên rằng, loại rượu người bán cung cấp không phải loại

rượu được quy định theo hợp đồng khiến mục đích bán lại hàng hóa của người mua

không thực hiện được, mặc dù người mua đã không phản đối trong thời hạn quy định

nhưng người bán không thể không biết về việc này. Bởi vậy người bán đã có sự vi

phạm cơ bản hợp đồng trong chuyến hàng đầu tiên.

Tương tự, trong vụ tranh chấp “Designer clothes” [223] giữa người bán Italia

và người mua Đức, hai bên đã ký hợp đồng mua bán quần áo, hàng được giao làm

nhiều chuyến. Chuyến hàng thứ nhất đã phát sinh tranh chấp do hàng hóa được giao

với phẩm chất kém, kích cỡ không phù hợp quy định của hợp đồng và số quần áo đó

không thể bán được như là quần áo phụ nữ chất lượng cao theo quy định của hợp

đồng. Chính vì vậy, Tòa phúc thẩm Köln (Đức) đã cho rằng người bán đã vi phạm cơ

bản hợp đồng trong chuyến hàng này.

Về nguyên tắc, khi chất lượng hàng giao không phù hợp với hợp đồng làm cho

mục đích mua hàng để bán lại của người mua không đạt được thì vi phạm đó bị coi là

vi phạm cơ bản hợp đồng nhưng nếu người mua không chứng minh được là mục đích

sử dụng hàng hóa để bán lại thì không thể coi việc người bán giao hàng có chất lượng

không phù hợp hợp đồng quy định là vi phạm cơ bản hợp đồng. Ví dụ, trong vụ Shoes

[227] - tranh chấp giữa Công ty thương mại Đức (người mua) với Nhà máy sản xuất

giày của Ý (người bán) - người mua đã từ chối thanh toán cho người bán với lý do

giày giao không phù hợp với chi tiết kỹ thuật nêu trong hợp đồng. Tuy nhiên, theo Tòa

án Frankfurt (Đức), người mua không chỉ rõ giày dưới tiêu chuẩn hay hoàn toàn

không phù hợp để bán lại. Tòa án cho rằng chỉ khi người mua chỉ rõ hàng hóa không

thể bán lại được thì hành vi vi phạm của người bán mới bị xem là vi phạm cơ bản hợp

đồng. Tương tự, vụ tranh chấp “Cobalt sulphate” [237] giữa người bán Hà Lan và

người mua Đức về hợp đồng mua bán Cobalt sulphate. Hai bên đã thỏa thuận Cobalt

sulphate phải có xuất xứ Anh và bên bán phải cung cấp giấy chứng nhận xuất xứ và

chứng nhận chất lượng. Sau khi nhận được chứng từ, bên mua phát hiện ra rằng Cobalt

sulfate thật ra có nguồn gốc từ Nam Phi, giấy chứng nhận xuất xứ là sai và chất lượng

Page 83: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

78

sản phẩm không như chất lượng được quy định trong hợp đồng. Bên mua đã vài lần

tuyên bố hủy hợp đồng. Cả tòa Quận Hamburg (Đức) và Tòa phúc thẩm Hamburg

(Đức) đều phán quyết rằng không có lý do gì để hủy hợp đồng. Phê chuẩn phán quyết

của tòa cấp dưới, tòa tối cao Đức đã quyết định rằng không có vi phạm cơ bản hợp

đồng làm cơ sở cho việc hủy hợp đồng vì người mua không thể chỉ ra rằng không thể

bán cobalt sulphate Nam Phi ở Đức hoặc ở nước ngoài. Do đó, người mua không thể

chứng minh rằng việc này đã tước đi những gì anh ta kỳ vọng từ hợp đồng.

(ii) Đối với mua hàng nhằm mục đích sử dụng (khả năng sử dụng của hàng)

Trong một số trường hợp nhất định, tòa án, trọng tài dựa vào điều khoản của

hợp đồng để xác định mục đích sử dụng cụ thể mà người bán đã biết hoặc phải biết

vào lúc giao kết hơp đồng, từ đó xác định vi phạm cơ bản hợp đồng theo theo Điều 25

Công ước Viên. Lúc này, việc vận dụng quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng của tòa

án, trọng tài luôn gắn liền với Điều 35 quy định về hàng hóa phù hợp với hợp đồng.

Vụ “Automobile” [208]: Tranh chấp liên quan hợp đồng mua bán xe hơi giữa

người bán Úc và người mua Trung Quốc, theo đó người bán phải cung cấp một chiếc

xe hơi có khả năng sử dụng trên cạn và dưới nước để phục vụ cho triển lãm. Tuy

nhiên, sau khi giao hàng, người mua phát hiện hàng có khiếm khuyết trầm trọng về lỗi

thiết kế và không thể sử dụng được ở dưới nước để phục vụ cho triển lãm. Mặc dù

người bán đã cử người đến sửa chữa nhưng không thành công, do đó người mua Trung

Quốc đã yêu cầu hủy hợp đồng. Trong khi đó người bán Úc muốn đưa hàng về nước

để khắc phục khiếm khuyết trước khi giao lại cho người mua. Vụ việc được đưa ra

CIETAC và Trọng tài CIETAC cho rằng trong trường hợp này, khi hàng bị lỗi do thiết

kế và không thể sử dụng dưới nước đã phá vỡ mục đích của người mua là muốn mua

hàng ra triển lãm, tức là mục đích của hợp đồng không đạt được (tương tự vụ PTA

Powder [213]), do đó CIETAC đã ra phán quyết là người bán đã vi phạm cơ bản hợp

đồng theo tinh thần của Điều 25 của Công ước Viên.

Quan điểm tương tự cũng được trọng tài của CIETAC đưa ra trong vụ

“Printing machine” [188]: Tranh chấp hợp đồng mua máy in giữa người bán Hồng

Kông và người mua Trung Quốc, theo đó người bán và người mua đã ký hợp đồng

mua bán máy in chất lượng cao với độ chính xác 0,03 mm. Tuy nhiên, sau khi hợp

đồng có hiệu lực, người bán đã giao máy in với độ chính xác 0,07 mm. Mặc dù máy in

vẫn có thể sử dụng với mục đích bình thường nhưng Hội đồng trọng tài thuộc

Page 84: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

79

CIETAC cho rằng mục đích của người mua theo hợp đồng là mua một máy in với độ

chính xác 0,03 mm chứ không phải máy in sử dụng cho mục đích kinh doanh bình

thường, nếu không người mua đã không cần thiết phải thêm vào hợp đồng các đòi hỏi

về thông số kỹ thuật và phải thanh toán với giá cao như vậy. Do đó, Hội đồng trọng tài

cho rằng lợi ích người mua hướng tới trong trường hợp này đã bị tước đi, và hành vi

nêu trên của người bán đã cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng.

Tương tự, trong vụ tranh chấp Packaging machine [253] giữa người bán Thụy

Sĩ, người mua Tây Ban Nha. Người bán giao máy đóng gói cho người mua nhưng máy

đóng gói chỉ đóng được 52 lọ nhỏ/1 phút trong khi theo hợp đồng các bên ký kết là

182 lọ nhỏ/1 phút. Như vậy, máy đóng gói mà người bán giao chỉ đạt 29% những gì

các bên đã thỏa thuận, không phù hợp với hợp đồng. Điều này làm mất đi 71% năng

suất lao động, làm cho người mua không đạt được mục đích sử dụng hàng hóa khi

giao kết hợp đồng, tức là bị tước đi những gì anh ta kỳ vọng từ hợp đồng. Vì vậy, Tòa

tối cao liên bang (Thụy Sĩ) phán quyết rằng vi phạm của người bán trong trường hợp

này là vi phạm cơ bản hợp đồng.

Tuy nhiên, nếu hàng hóa được giao có chất lượng không phù hợp với hợp đồng

những vẫn có khả năng sử dụng được thì tòa án, trọng tài không xem đó là hành vi vi

phạm cơ bản hợp đồng.

Phán quyết của tòa phúc thẩm Frankfurt (Đức), năm 2008, trong vụ “Café

inventory” [232], theo đó người bán Hà Lan đã cung cấp cho người mua Đức thiết bị

sử dụng cho tiệm café nhưng thiết bị này không phù hợp với hợp đồng về chất lượng,

chưa hoàn chỉnh và không sẵn sàng để đưa vào sử dụng theo quan điểm của người

mua, Tòa phúc thẩm Hamburg (Đức) đã cho rằng, trường hợp này không có sự vi

phạm cơ bản hợp đồng vì khi chất lượng hàng hóa được giao không phù hợp với hợp

đồng thì sự không phù hợp đó phải lớn đến mức hàng hóa trở nên vô dụng đối với

người mua mới được xác định là vi phạm cơ bản hợp đồng. Nếu hàng giao có chất

lượng không phù hợp với hợp đồng nhưng vẫn có thể sử dụng được hàng hóa đó, thậm

chí chỉ sử dụng trong giới hạn, sẽ không cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng. Bên

cạnh đó, mặc dù chất lượng hàng giao không phù hợp với hợp đồng đến mức hàng

không thể sử dụng được nhưng nếu người mua không thể chứng minh được hàng hóa

không phù hợp về chất lượng đến mức làm mất khả năng sử dụng của hàng hóa thì

không phải là vi phạm cơ bản hợp đồng.

Page 85: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

80

Từ những phân tích trên, người viết cho rằng:

(1) Những gì các bên có quyền kỳ vọng từ hợp đồng chính là mục đích các bên

giao kết hợp đồng, là lợi nhuận hay lợi ích kinh tế mà các bên mong muốn đạt được

vào thời điểm giao kết hợp đồng.

Điều 25 Công ước Viên chỉ quy định “…tước đi đáng kể những gì bên bị vi

phạm kỳ vọng từ hợp đồng…” và Ban Thư ký của UNCITRAL cũng không có bất cứ

bình luận hay giải thích nào về nội hàm, ý nghĩa của “những gì bên bị vi phạm kỳ

vọng từ hợp đồng”. Tuy nhiên, trong thực tiễn giải quyết tranh chấp, tòa án và trọng tài

đã xem “những gì các bên kỳ vọng từ hợp đồng” chính là mục đích giao kết hợp đồng

của các bên (khả năng thương mại hoặc khả năng sử dụng của hàng hóa), tức là lợi

nhuận hay lợi ích kinh tế của các bên có được từ giao kết và thực hiện hợp đồng. Điều

này, theo đánh giá của người viết, là phù hợp vì các lẽ sau đây:

+ Quan hệ MBHHQT giữa người bán và người mua chính là một dạng của quan

hệ tài sản. Quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa – tiền tệ nên MBHHQT cũng

mang tính chất này. Bên cạnh đó, hợp đồng mua bán là phương tiện pháp lý để người

mua thủ đắc quyền sở hữu và đáp ứng nhu cầu kinh tế của người mua [67, tr.136].

+ Tham gia vào hoạt động MBHHQT, người bán bán hàng cho người mua cũng

như người mua mua hàng từ người bán vì nhiều mục đích khác nhau. Tuy nhiên, vì

MBHHQT là hoạt động thương mại và bản chất của hoạt động thương mại luôn là

nhằm mục đích sinh lợi, tức là tìm kiếm lợi nhuận, lợi ích kinh tế. Hay nói cách khác,

người bán và người mua giao kết hợp đồng là nhằm mục đích kinh tế, vì lợi ích kinh tế

[151, tr.266].

(2) Hàng hóa vẫn luôn được giao dịch với một vài mục đích nhất định, và

những thương gia trong vai trò người mua theo Công ước được quyền kỳ vọng giá trị

sử dụng hợp lý với số tiền họ bỏ ra. Xuất phát từ bản chất thương mại của hoạt động

mua bán hàng hóa nói chung, MBHHQT nói riêng, người mua và người bán đều

hướng tới tìm kiếm lợi ích từ việc xác lập và thực hiện hợp đồng [152, tr.192]. Nếu

như người bán tìm kiếm lợi ích đó từ việc người mua thanh toán tiền hàng thì người

mua tìm kiếm lợi ích thông qua việc mua hàng để bán lại nhằm tìm kiếm chênh lệch

giá. Vì vậy, nếu hàng hóa cơ bản không phù hợp cho mong muốn bán lại để tìm kiếm

lợi ích của người mua thì người mua có quyền hủy hợp đồng.

Page 86: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

81

Việc xác định mục đích mua hàng của người mua phụ thuộc rất lớn vào ngôn từ

của hợp đồng. Thực tiễn vận dụng quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng cho thấy,

việc xác định mục đích mua hàng của tòa án và trọng tài “khá cảm tính” mà chưa tính

hết các tình huống có liên quan nếu các bên không có thỏa thuận rõ ràng trong hợp

đồng. Vấn đề liên quan đến câu hỏi người mua có mong muốn bán lại hay sử dụng

hàng hóa không phù hợp hay không, điều này cần phải xem xét người mua có phải là

nhà bán lẻ chuyên nghiệp hay nhà sản xuất hay người tiêu dùng cuối cùng tiêu dùng

loại hàng hóa đó.

Mục đích mua hàng của người mua có thể rất đa dạng: mua hàng để bán lại hay

đơn giản mua hàng để sử dụng vào một mục đích cụ thể nào đó. Làm sao có thể xác

định nếu người mua và người bán không có thỏa thuận cụ thể về mục đích mua hàng,

người mua có buộc phải thông báo cho người bán biết hay người bán có nghĩa vụ phải

biết việc người mua mua hàng nhằm mục đích gì. Nếu người mua mua hàng nhằm

mục đích sản xuất thì lợi ích của người mua đối với việc bán lại hàng hóa sẽ không

được bảo vệ nhưng lợi ích của người mua đối với việc bán tiếp hàng hóa đó sau khi

sản xuất cần được bảo vệ.

Khi một bên trong hợp đồng là nhà bán lẻ hoặc bán buôn thì thông thường

mong muốn của việc mua hàng là để bán lại [86, tr.45]. Nếu người mua trong hợp

đồng MBHHQT là người bán lẻ thì thường bán hàng cho khách hàng quen thuộc,

nhưng người bán buôn thường thâm nhập các thị trường khác tốt hơn. Chính vì thế, đối

với người bán lẻ sẽ không hợp lý nếu kỳ vọng người bán lẻ cung cấp một vùng nhất

định trong kho chứa hàng để chứa hàng hóa bị khiếm khuyết. Vì vậy, mục đích bán lại

ngay hàng hóa của người bán lẻ (người mua) sẽ bị tước đoạt nếu người bán giao hàng

không phù hợp về chất lượng, giao hàng có khiếm khuyết [148, tr.262]. Trong trường

hợp hàng mua để sản xuất, người mua không thể lấy căn cứ rằng hàng không bán lại

được mà việc sử dụng hàng hóa được mua để sản xuất hàng hóa phải được xem là mục

đích giao kết hợp đồng của người mua. Tuy nhiên, nếu hàng hóa sản xuất ra không thể

bán được trong điều kiện kinh doanh bình thường do sự không phù hợp về chất lượng

của hàng hóa được mua để làm nguyên liệu sản xuất thì có thể có vi phạm cơ bản hợp

đồng trong trường hợp này.

(3) Từ mục đích mua hàng của người mua có thể thấy được người mua kỳ vọng

gì từ hợp đồng. Khi mua hàng để bán lại thì người mua kỳ vọng có được giá trị của

Page 87: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

82

hàng để có được lợi nhuận trên cơ sở chênh lệch giá mua và giá bán, còn nếu mua

hàng để người mua có thể sản xuất với máy móc và hàng hóa mua về thì người mua kỳ

vọng có được giá trị hợp đồng. Với những kỳ vọng đó, lợi nhuận của người mua hàng

bán lại thường là sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán lại, còn lợi nhuận của người

mua để sản xuất là giá trị tăng thêm bởi sản xuất bao gồm lợi nhuận được tạo ra bởi

máy móc trừ đi giá mua – lợi ích kinh tế của hợp đồng. Đó là những gì người mua kỳ

vọng từ hợp đồng. Hơn nữa, kỳ vọng từ hợp đồng của các bên là luôn tiến hành kinh

doanh thông thường - điều này lý giải tại sao mục đích của hàng hóa có liên quan. Kỳ

vọng của người mua hàng để sản xuất thông thường là sản xuất không bị gián đoạn,

quá trình sản xuất không bị cản trở, còn người mua hàng để bán lại là có mặt trên thị

trường và tiếp tục bán lại hàng đã mua. Nếu những kỳ vọng đó không đạt được (bị

tước đi) thì có thể uy tín kinh doanh bị tổn thất.

Có thể nói, người mua bán lại hàng với giá thấp hơn hoặc bằng giá mua thì thực

sự người mua đã mất đi “lợi ích kinh tế của thỏa thuận mua bán” [86, tr.40]. Bởi vì nếu

người mua bán hàng với giá bằng giá mua thì chẳng có gì khác biệt giữa việc mua trực

tiếp từ người bán đầu tiên với người mua cuối cùng không có sự tham gia của người

bán đầu tiên, điều này khiến cho việc mua hàng từ người bán lẻ đầu tiên không còn ý

nghĩa kinh tế. Nếu người mua mua hàng để bán lại chỉ bán lại hàng hóa với mức giá

thấp hơn mức giá thực tế người mua đã mua thì ý nghĩa kinh tế của hợp đồng này càng

có vấn đề. Vì vậy, kỳ vọng khi mua hàng của người mua luôn gắn với lợi ích kinh tế

mà người mua kỳ vọng có được, cho dù đó là mua hàng để bán lại hay mua hàng để sử

dụng cho bất kỳ mục đích nào, trong đó có việc dùng cho sản xuất.

3.2.3. Khả năng tiên liệu được hậu quả do hành vi vi phạm gây ra (tổn hại

đến mức tước đi đáng kể những gì bên bị vi phạm có quyền kỳ vọng từ hợp đồng)

Khả năng tiên liệu được tổn hại đến mức tước đi đáng kể những gì bên bị vi

phạm có quyền kỳ vọng từ hợp đồng (hậu quả của hành vi vi phạm) là cơ sở, là điều

kiện đủ để xem xét tính cơ bản của vi phạm hợp đồng về phía bên vi phạm. Khả năng

tiên liệu của bên bị vi phạm được “đo lường” không chỉ dựa vào bên vi phạm (thường

mang tính chủ quan) mà còn dựa vào “người có lý trí ở vào địa vị và hoàn cảnh tương

tự” bên bị vi phạm (thường mang tính khách quan). Vì thế, có thể nói, vi phạm hợp

đồng chỉ có thể bị coi là vi phạm cơ bản hợp đồng khi thỏa mãn điều kiện về khả năng

Page 88: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

83

tiên liệu hậu quả của hành vi vi phạm – gây tổn hại đến mức tước đi đáng kể những gì

bên bị vi phạm có quyền kỳ vọng từ hợp đồng.

Xuất phát từ từ ngữ của Điều 25 Công ước Viên, vi phạm hợp đồng có phải là

cơ bản hay không không chỉ tùy thuộc vào hậu quả của hành vi vi phạm đó mà còn tùy

thuộc khả năng tiên liệu được những hậu quả đó đối với bên kia [133; 160]. Kiến thức

và khả năng tiên liệu được kỳ vọng từ hợp đồng của bên bị vi phạm là những tiêu chí

liên quan khi giải thích và đánh giá tầm quan trọng và tính cơ bản của nghĩa vụ hợp

đồng bị vi phạm [107]. “Khả năng tiên liệu” có hai chức năng: (1) về mặt nội dung,

khả năng tiên liệu thể hiện kiến thức và khả năng nhìn thấy trước hậu quả nghiêm

trọng của hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm, tức là tiên liệu được tổn hại đến

mức tước đi đáng kể những gì bên bị vi phạm có quyền kỳ vọng từ hợp đồng; (2) về

mặt hình thức, khả năng tiên liệu chuyển nghĩa vụ chứng minh từ bên bị vi phạm sang

bên vi phạm khi bên vi phạm khiếu nại rằng anh ta hay một người có lý trí nào khác ở

vào địa vị và trong hoàn cảnh như anh ta (đề cập tới những điều kiện thị trường cả khu

vực lẫn thế giới, pháp luật, chính trị, khí hậu và cả những hợp đồng và các cuộc đàm

phán trước đây giữa các bên) cũng không thể tiên liệu được hậu quả đó [85, tr.122].

Kiến thức và khả năng tiên liệu được kỳ vọng của bên bị vi phạm trong hợp

đồng có liên quan đến việc giải thích và đánh giá tầm quan trọng của nghĩa vụ bị vi

phạm và ý nghĩa của nó [165]. Khi giải thích hợp đồng cần phải xem xét đến yếu tố

này, hơn nữa, kiến thức và khả năng tiên liệu được kỳ vọng của bên bị vi phạm cũng

cần được xem xét theo Điều 8 Công ước Viên, theo đó “các tuyên bố và cách xử sự

khác của một bên được di n giải theo đúng ý định của họ nếu bên kia đã biết hoặc

không thể không biết ý định ấy”, nếu không thì “các tuyên bố và cách xử sự khác của

một bên được giải thích theo nghĩa mà một người có lý trí có cùng nền tảng với bên

kia và được đặt trong hoàn cảnh tương tự cũng sẽ hiểu như thế”, “cần phải tính đến

mọi tình tiết liên quan, đặc biệt là các cuộc đàm phán đã di n ra giữa các bên, các

thói quen đã được hình thành giữa họ, các tập quán và mọi hành vi sau đó của các

bên”. Xem xét khả năng tiên liệu có thể tính đến một số trường hợp sau đây:

(i) Nếu các bên thỏa thuận rõ trong hợp đồng nghĩa vụ cụ thể hoặc phương thức

thực hiện nghĩa vụ là nội dung quan trọng chủ yếu đối với các bên thì không có lý do

gì để giảm bớt tầm quan trọng của các nghĩa vụ đó bằng quy tắc khả năng tiên liệu.

Nếu các bên đã đạt được thỏa thuận (ví dụ: về thời gian giao hàng cố định) thì bên vi

phạm không thể ngăn cản việc hủy hợp đồng bằng lập luận rằng anh ta không tiên liệu

được bất kỳ tổn hại nào xảy ra đối với bên bị vi phạm [88; 132]. Bên cạnh đó, nếu

Page 89: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

84

ngôn từ diễn đạt trong hợp đồng là rõ ràng thì bên vi phạm sẽ không có cơ hội để cho

rằng anh ta không tiên liệu được hoặc nhận thức được tổn hại đơn giản là vì “người có

lý trí ở vào địa vị” như bên vi phạm không thể hiểu sai cách diễn đạt đó được.

(ii) Nếu các bên đã thảo luận về tầm quan trọng đặc biệt của nghĩa vụ cụ thể

nào đó và cách thức thực hiện nhưng không quy định rõ hơn trong hợp đồng và bên bị

vi phạm có thể chứng minh được điều này thì bên vi phạm cũng không thể viện dẫn

rằng anh ta không tiên liệu được hậu quả của hành vi vi phạm. Chẳng hạn, ngày giao

hàng cụ thể có thể được quy định trong hợp đồng hoặc qua cuộc đàm phán của các

bên. Khả năng tiên liệu được tầm quan trọng của ngày giao hàng dựa trên thông tin do

khách hàng của người mua cung cấp.

(iii) Chỉ khi tầm quan trọng của nghĩa vụ bị vi phạm không được quy định rõ

trong hợp đồng hoặc không được nêu lên rõ ràng trong các cuộc đàm phán hợp đồng

thì cần xem xét đến khả năng tiên liệu của bên vi phạm. Lúc này, khoản 2 và 3 Điều 8

Công ước Viên sẽ được áp dụng để giải thích hợp đồng vì cần thiết phải xác định

người có lý trí ở vào địa vị tương tự cũng nhận ra được tầm quan trọng của nghĩa vụ bị

vi phạm. Chẳng hạn, nếu giao hàng hóa theo mùa đã được quy định trong hợp đồng,

nhà cung cấp có lý trí ở cùng lĩnh vực kinh doanh đó cũng nhận ra rằng việc chậm giao

hàng đến cuối mùa sẽ tước đi đáng kể lợi ích của người mua.

Yếu tố khả năng tiên liệu hậu quả của vi phạm hợp đồng là “bộ lọc”, nếu được

chứng minh, thì nó sẽ ngăn cản bên bị vi phạm tuyên bố hủy hợp đồng. Bên vi phạm

có thể thoát khỏi vi phạm cơ bản và hậu quả của hành vi vi phạm bằng cách chứng

minh anh ta không tiên liệu được hậu quả hoặc người có lý trí cũng không thể tiên liệu

được nếu ở vào địa vị và hoàn cảnh của anh ta. Các tác giả Enderlein & Dietrich cho

rằng “Giả sử một bên biết hậu quả của hành vi vi phạm có ảnh hưởng sâu rộng đối

với bên kia, nếu anh ta không đảm bảo khả năng thi hành thì anh ta không ký kết hợp

đồng cũng như nỗ lực để ngăn ngừa vi phạm hợp đồng. Vì thế, vi phạm cơ bản hợp

đồng xảy ra không chỉ phụ thuộc vào hậu quả của hành vi vi phạm mà còn phụ thuộc

khả năng tiên liệu được hậu quả đó của bên vi phạm. Việc xem xét vấn đề này cũng

tương tự xem xét quy định tại Điều 74 Công ước Viên khi xác định khoản bồi thường

thiệt hại. Quyền của bên bị vi phạm sẽ bị hạn chế trong trường hợp bên vi phạm không

tiên liệu được hậu quả cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng. Kết quả là các bên sẽ chú

ý tới những hậu quả đó cả trong bản thân hợp đồng hoặc thông qua những thông tin

bổ sung được đưa ra đến khi ký kết hợp đồng” [113, tr.115]. Một số học giả phản đối

quy định về khả năng tiêu liệu được hậu quả của vi phạm hợp đồng vì họ lo sợ rằng

Page 90: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

85

quy định này sẽ khuyến khích bên bị vi phạm khẳng định không biết [132, tr.215]. Khả

năng tiên liệu được hậu quả của vi phạm hợp đồng nhằm miễn trừ trách nhiệm cho bên

vi phạm khi vi phạm cơ bản và không thể góp phần làm rõ vi phạm cơ bản hợp đồng.

Khả năng tiên liệu chỉ là yếu tố có điều kiện cần phải chứng minh để ngăn chặn hợp

đồng bị hủy, tổn hại đáng kể và hậu quả của nó (những gì các bên có quyền kỳ vọng từ

hợp đồng bị tước đi) là yếu tố chủ yếu, quan trọng để xác định vi phạm cơ bản hợp

đồng [126, tr.340].

Nghĩa vụ của bên bị vi phạm là phải chứng minh rằng, hành vi vi phạm đã gây

tổn hại đến mức tước đi đáng kể những gì anh ta có quyền kỳ vọng từ hợp đồng. Bên

vi phạm muốn thoát khỏi trách nhiệm do vi phạm cơ bản hợp đồng thì phải chứng

minh rằng anh ra không tiên liệu được hậu quả đó do vi phạm hợp đồng gây ra và

người có lý trí cũng không tiên liệu được nếu họ ở vào địa vị và hoàn cảnh tương tự

anh ta. Như vậy, để viện dẫn thành công yếu tố không có khả năng tiên liệu được hậu

quả của vi phạm hợp đồng, bên vi phạm phải chứng minh 2 luận điểm: một là, bản

thân anh ta không có cách nào để tiên liệu được tổn hại xảy ra lại tước đi đáng kể

những gì bên kia có quyền kỳ vọng từ hợp đồng; hai là, người có lý trí ở vào địa vị và

hoàn cảnh của anh ta cũng không thể tiên liệu được hậu quả đó. Chỉ khi trọng tài hoặc

thẩm phán bị thuyết phục bởi hai luận điểm chứng minh đó thì vi phạm hợp đồng

không bị coi là cơ bản. Chẳng hạn, Hội đồng trọng tài trong vụ Coke [247] đã cho

rằng “về khả năng tiên liệu hậu quả của vi phạm hợp đồng, Điều 25 tạo cơ hội cho Bị

đơn có thể cung cấp chứng cứ chứng minh để mi n trách nhiệm và thuyết phục Hội

đồng trọng tài rằng bị đơn không thể tiên liệu được và người có lý trí cũng không thể

tiên liệu được hậu quả đó”. Tương tự, Trong vụ Black melon seeds [199] (tranh chấp

giữa người bán TQ và người mua Hongkong), Trọng tài CIETAC (Trung Quốc) đã

phán quyết rằng người bán không giao hàng theo quy định trong hợp đồng là vi phạm

cơ bản theo Điều 25 và Điều 30 bởi “người bán có thể tiên liệu được một cách hợp lý

tổn hại đáng kể mà người mua phải gánh chịu là lợi nhuận của người mua bị mất và

hậu quả của việc mình không thực hiện hợp đồng”. Những quan điểm này của tòa án

hoặc trọng tài còn được tìm thấy trong một số vụ tranh chấp khác như vụ used printing

press [240] và Vụ Silicon-carbide [202].

Có thể nói, yếu tố “người có lý trí ở vào địa vị và hoàn cảnh tương tự” được bổ

sung vào quy định do một thực tế là bên vi phạm thường không thừa nhận rằng anh ta

Page 91: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

86

có khả năng tiên liệu được hậu quả của tổn hại do hành vi vi phạm của anh ta gây ra

đến mức tước đi đáng kể những gì bên kia có quyền kỳ vọng từ hợp đồng [82]. Mặc

dù, yếu tố này nhằm làm tăng tính khách quan của định nghĩa nhưng nó khiến định

nghĩa trở nên thiếu rõ ràng khi để xác định một người có lý trí tương đương (ở vào địa

vị và hoàn cảnh tương tự bên vi phạm) cần phải xét đến rất nhiều các yếu tố. Theo các

tác giả C. M. Bianca và M. J. Bonell, các yếu tố cần phải xem xét này bao gồm toàn bộ

nền tảng về kinh tế, xã hội, tôn giáo, ngôn ngữ, trình độ của bên vi phạm [88, tr.201].

Cũng như vậy, yếu tố địa vị hoàn cảnh tương tự là một yếu tố khó khăn để xác định.

Địa vị và hoàn cảnh tương tự cần được giải thích trong mối liên hệ với Điều 8 Công

ước Viên, theo đó địa vị và hoàn cảnh tương tự này bao gồm “mọi tình tiết liên quan,

kể cả các cuộc đàm phán, mọi thói quen mà các bên đã thiết lập với nhau, các tập quán

và mọi hành vi sau đó của các bên”[162, tr.26].

Từ những phân tích trên có thể rút ra một số nhận xét sau:

(1) Yếu tố “khả năng tiên liệu” hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng của bên

vi phạm trao cho bên vi phạm quyền chứng minh bản thân anh ta không tiên liệu được

hậu quả của hành vi vi phạm lại đáng kể đến mức tước đi của bên bị vi phạm những gì

anh ta có quyền kỳ vọng từ hợp đồng.

Bất cứ bên nào vi phạm hợp đồng mà ảnh hưởng nghiêm trọng đến hợp đồng

thì khó thừa nhận rằng anh ta tiên liệu được sự nghiêm trọng của hành vi vi phạm của

mình và sẽ tranh cãi rằng, anh ta không may đã không tiên liệu được tổn hại đến mức

tước đi đáng kể những gì bên bị vi phạm có quyền kỳ vọng từ hợp đồng. Không có khả

năng tiên liệu phụ thuộc vào kiến thức về những tính tiết có liên quan của bên vi phạm.

Nhưng kiến thức về những tình tiết đó có thể không hoàn toàn đầy đủ vì những lý do

khác nhau. Dù là lý do gì, dù là ai thì anh ta có thể khẳng định một cách đơn giản rằng

anh ta không biết, không tiên liệu được. Tất nhiên, chỉ khẳng định không là không đủ

mà phải có chứng cứ. Nhưng rõ ràng, không phải dễ dàng để đưa ra chứng cứ có sức

thuyết phục cho quan điểm mang đậm tính chủ quan về vấn đề này. Hơn nữa, thậm chí

chứng cứ thuyết phục thì đánh giá đậm tính chủ quan khó thỏa mãn những quy luật

khách quan của thương mại quốc tế. Chính vì vậy, cần đánh giá khách quan bằng việc

bên vi phạm muốn viện dẫn không có khả năng tiên liệu phải chứng minh thêm rằng

“một người có lý trí ở vào địa vị và hoàn cảnh tương tự” cũng không thể tiên liệu được

hậu quả là những gì bên bị vi phạm kỳ vọng từ hợp đồng bị tước đi đáng kể.

Page 92: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

87

Khi xem xét một cách khách quan, bên vi phạm được xem là có khả năng tiên

liệu hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng nếu anh ta được xác định là có thể biết và

phải biết hậu quả của hành vi vi phạm đó. Tuy nhiên, điều gì sẽ xảy ra nếu bên vi

phạm có kiến thức, chuyên môn đặc biệt và vì thế cho nên có thể tiên liệu hơn là

thương nhân có kiến thức trung bình? Riêng từ “và” đã có thể kết luận rằng những

kiến thức/chuyên môn đặc biệt đó không thể được xem xét, cho phép bên vi phạm

thoát khỏi việc phát hiện ra hành vi vi phạm cơ bản hợp đồng bằng việc ẩn mình sau

mẫu người có lý trí ở vào địa vị và hoàn cảnh tương tự anh ta [132].

(2) Yếu tố “khả năng tiên liệu” yêu cầu bên vi phạm không tiên liệu được và

người có lý trí ở vào địa vị và hoàn cảnh tương tự anh ta cũng không thể tiên liệu được

mức độ nghiêm trọng của tổn hại đáng kể mà bên bị vi phạm phải gánh chịu. Các quan

điểm đều thống nhất rằng hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng, tức là tổn hại đến

mức tước đi đáng kể những gì bên kia có quyền kỳ vọng từ hợp đồng phải được tiên

liệu bởi bên vi phạm [85, tr.119; 124; 142] và nghĩa vụ chứng minh buộc bên vi phạm

phải chỉ ra rằng anh ta không thể tiên liệu được tổn hại đó nhằm loại trừ việc anh ta

phải chịu trách nhiệm phát sinh do vi phạm cơ bản hợp đồng [142, tr.181; 124, tr.279].

Tuy nhiên, khả năng tiên liệu được xem xét vào thời điểm nào vẫn là vấn đề

gây nhiều tranh cãi. Sở dĩ như vậy là do lịch sử soạn thảo Điều 25 và Bình luận của

Ban Thư ký đã cho thấy rằng vấn đề thời điểm xác định khả năng tiên liệu đã cố tình

bị bỏ ngỏ [135]. Tại cuộc họp lần thứ 30, Vương quốc Anh đề xuất thêm vào Điều 25

là “trừ khi tại thời điểm hợp đồng được ký kết, bên vi phạm không tiên liệu được và

không thể tiên liệu được hậu quả đó”. Tuy nhiên, đề xuất này đã bị chỉ trích mạnh mẽ

từ Na Uy, Phần Lan và Hungary khi họ cho rằng “thông tin cung cấp sau khi ký kết

hợp đồng có thể làm thay đổi tình huống liên quan cả tổn hại đáng kể và sự tiên

liệu”[135]. Do đó, Vương Quốc Anh đã rút đề xuất của mình [136]. Cuối cùng, Ủy

ban đã đưa ra quyết định “Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, Ủy ban không xem xét sự cần

thiết phải quy định rõ thời điểm nào bên vi phạm tiên liệu được hoặc có thể tiên liệu

được hậu quả của hành vi vi phạm”[161, tr.25-64], “khi có tranh chấp phát sinh, thời

điểm tiên liệu sẽ do trọng tài và tòa án quyết định căn cứ vào những tình huống cụ

thể”[159; 121, tr.19].

Vì không có quy định rõ ràng về thời điểm xem xét khả năng tiên liệu, trong

giới học giả đã có nhiều tranh luận và có hai trường phái quan điểm chính về vấn đề

Page 93: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

88

này: (i) Thời điểm xem xét khả năng tiên liệu phải là thời điểm ký kết hợp đồng, tức là

việc xác định bên vi phạm có tiên liệu được hay không là xem xét kiến thức và khả

năng của anh ta cũng như người có lý trí ở vào địa vị và hoàn cảnh tương tự anh ta vào

thời điểm ký kết hợp đồng; (ii) Thời điểm xem xét khả năng tiên liệu là thời điểm sau

khi ký kết hợp đồng và khi vi phạm hợp đồng.

- Khả năng tiên liệu được xem xét vào thời điểm ký kết hợp đồng

Xuất phát điểm của quan điểm này là dựa trên những gì một bên có quyền kỳ

vọng từ hợp đồng và quy tắc khả năng tiên liệu quy định tại Điều 74 Công ước Viên.

Một số tác giả cho rằng vì Điều 25 chỉ rõ tổn hại đến mức tước đi đáng kể của

bên kia những gì bên bị vi phạm có quyền kỳ vọng từ hợp đồng thì đương nhiên khả

năng tiên liệu phải gắn với thời điểm ký kết hợp đồng vì kỳ vọng từ hợp đồng của các

bên được hình thành từ thời điểm ký kết hợp đồng [144, tr.291; 142, tr.60; 151, tr.266;

112, tr.499]. Người viết cho rằng, luận điểm này chưa thực sự thuyết phục bởi: Luận

điểm này của một số học giả chủ yếu dựa trên việc giải thích nghĩa đen của Điều 25.

Thực tiễn cho thấy, giao dịch kinh doanh trong xã hội hiện đại rất phức tạp và bao gồm

nhiều sự tương tác [124, tr.144] và trao đổi qua lại liên tục [11, Điều 19, khoản 2 Điều

21, Điều 26, khoản 2 Điều 48] giữa các bên. Vì thế, nếu coi thỏa thuận mua bán như

mối quan hệ tĩnh tại mà ở đó quyền và kỳ vọng của các bên ổn định vào thời điểm ký

kết hợp đồng thì có nghĩa là đã bỏ qua thực tế rằng hợp đồng luôn vận động theo sự

liên hệ, trao đổi, hợp tác giữa các bên với nhau và khi đó nội dung hợp đồng có thể

được mở rộng hơn so với thời điểm các bên ký kết hợp đồng, tức là nghĩa vụ ban đầu

có thể được thay đổi theo hướng mở rộng hơn [117, tr.78]. Người viết cho rằng, lấy kỳ

vọng từ hợp đồng của các bên làm xuất phát điểm cho việc xem xét khả năng tiên liệu

vào thời điểm ký kết hợp đồng là không phản ánh được thực tiễn quá trình giao dịch

kinh doanh vận động, thay đổi liên tục ngày nay. Kỳ vọng vào thời điểm ký kết hợp

đồng có thể thay đổi thông qua các cuộc đàm phán, trao đổi thông tin giữa các bên sau

khi ký kết hợp đồng.

Một số tác giả cho rằng, khả năng tiên liệu quy định tại Điều 25 Công ước Viên

nên được giải thích thống nhất với yêu cầu về khả năng tiên liệu theo Điều 74 [121,

tr.9-20; 151, tr.322; 147, tr.216]. Điều 74 quy định “…Tiền bồi thường thiệt hại này

không được cao hơn tổn thất mà bên bị vi phạm đã tiên liệu hoặc đáng lẽ phải tiên liệu

được vào thời điểm ký kết hợp đồng như một hậu quả có thể xảy ra do vi phạm hợp

Page 94: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

89

đồng, có tính đến các tình tiết và yếu tố mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết”. Như

vậy, Điều 74 quy định thời điểm tiên liệu được thiệt hại là thời điểm ký kết hợp đồng.

Tuy nhiên, chưa có giải thích hay phân tích nào trong giới học giả về mục đích ưu tiên

của hai quy định về khả năng tiên liệu để ủng hộ cho quan điểm trên. Ví dụ, Zeller cho

rằng “Khả năng tiên liệu là nguyên tắc chung của Công ước Viên và nó phải được hiểu

gắn liền với Điều 74” [89, tr.226]. Tuy nhiên, Flechtner cho rằng, yêu cầu giải thích

thống nhất Công ước theo khoản 1 Điều 7 Công ước Viên không “cứng nhắc cũng

không phải nhiệm vụ đơn giản” [117, tr.188]. Cách hiểu hợp lý yêu cầu giải thích

thống nhất của Công ước theo khoản 1 Điều 7 Công ước Viên là đòi hỏi quá trình hoặc

phương pháp phải đảm bảo nhận thức và tôn trọng mục đích của quy định, tôn trọng

quy tắc được thiết lập để đạt được mục đích [117, tr.188].

Người viết cho rằng, không thể lấy quy tắc về khả năng tiên liệu quy định tại

Điều 74 Công ước để xem xét khả năng tiên liệu quy định tại Điều 25 Công ước vì

mục đích của hai quy tắc khả năng tiên liệu là khác nhau, cụ thể:

+ Mục đích của yêu cầu khả năng tiên liệu tại Điều 74 Công ước Viên là để giới

hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên vi phạm hợp đồng đối với những gì mà

anh ta có thể tiên liệu được vào thời điểm giao kết hợp đồng [118, tr.77]. Quan trọng

nhất, hành động ký kết hợp đồng là cách thức mà qua đó các bên định rõ những rủi ro

phát sinh từ hợp đồng [105, tr.102; 151, tr.321; 165, tr.322]. Vì thế, khả năng tiên liệu

buộc bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại đến mức độ mà anh ta tiên liệu được vào

thời điểm anh ta ký kết hợp đồng, tức là thời điểm mà anh ta tính toán được rủi ro từ

hợp đồng mua bán và chấp nhận nhận lại những gì anh ta xem là hợp lý để bù đắp rủi

ro [105, tr.102; 151, tr.102]. Bên vi phạm không bị buộc phải mở rộng phạm vi trách

nhiệm và thanh toán tiền bồi thương thiệt hại vượt quá những gì anh ta không tiên liệu

được. Tuy nhiên, khả năng tiên liệu quy định tại Điều 74 Công ước Viên không áp

dụng để buộc một bên tiếp tục duy trì quan hệ hợp đồng với bên kia, đặc biệt vào thời

điểm vi phạm hợp đồng khi mà bên vi phạm tiên liệu được tổn hại đáng kể mà bên kia

phải gánh chịu do hành vi vi phạm của bên vi phạm gây ra [118, tr.77].

+ Mục đích của quy định về khả năng tiên liệu quy định tại Điều 25 là để ngăn

cản việc hủy hợp đồng vì những lý do không đủ thỏa mãn điều kiện để hủy hợp đồng

đó [161, tr.25-64; 124, tr.278]. Tác giả Winsor cho rằng “mục đích đằng sau Điều 25

là để bảo vệ người bán khỏi sự chấm dứt hợp đồng không đáng của người mua, và

Page 95: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

90

ngăn ngừa lãng phí về mặt kinh tế có thể phát sinh từ vận chuyển hàng hóa quốc tế khi

hàng hóa sản xuất bị từ chối và phải chuyển trả về kho của người bán” [125, tr.102].

Vì thế, thời điểm tiên liệu không cần phải bị giới hạn ở thời điểm ký kết hợp đồng vì

điều quan trọng là vào thời điểm vi phạm hợp đồng, bên vi phạm có tiên liệu được

hoặc phải tiên liệu được tổn hại đáng kể như là hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng

hay không. Tác giả Flechtner đã cho rằng, thực tế là tính nghiêm trọng của hậu quả

không thể tiêu liệu được vào thời điểm ký kết hợp đồng – thời điểm có ít mối liên quan

đến vấn đề hủy hợp đồng [118, tr.77]. Điểm đặc biệt có liên quan đến khả năng tiên

liệu làm cơ sở để xác định thỏa mãn hay không thỏa mãn yếu tố cấu thành vi phạm cơ

bản hợp đồng nằm ở thời điểm khi bên vi phạm tiên liệu được rằng vi phạm gây ra tổn

hại đáng kể đối với bên kia.

Người viết cho rằng, quy định về khả năng tiên liệu theo Điều 25 Công ước

Viên nên được giải thích trong phạm vi Điều 25 Công ước Viên. Việc xem xét khả

năng tiên liệu theo Điều 25 Công ước Viên là chỉ để bảo vệ yêu cầu của bên vi phạm

[124, tr.278]. Việc xác định thời điểm xem xét khả năng tiên liệu hậu quả của hành vi

vi phạm của bên vi phạm nếu chỉ giới hạn ở thời điểm ký kết hợp đồng, vô hình chung,

sẽ dẫn đến hạn chế không đáng có về mặt kỹ thuật áp đặt lên chức năng của việc xem

xét khả năng tiên liệu theo Điều 25 Công ước và giảm đáng kể việc bảo vệ quyền yêu

cầu của bên vi phạm [90, tr.89]. Vì vậy, việc xác định thời điểm tiên liệu là thời điểm

ký kết hợp đồng không chỉ giải thích sai mục đích căn bản của quy định xem xét khả

năng tiên liệu mà Điều 25 Công ước đang hướng tới [124, tr.278] mà còn tạo nên sự

mâu thuẫn về mặt kỹ thuật với nguyên tắc giải thích thông nhất Công ước Viên quy

định tại Điều 8 Công ước.

- Khả năng tiên liệu được xác định sau khi ký kết hợp đồng và khi vi phạm hợp

đồng

Có nhiều quan điểm ủng hộ việc xem xét khả năng tiên liệu vào thời điểm vi

phạm khi bên vi phạm có thông báo về tổn hại đáng kể xảy ra. Tác giả Honnold cho

rằng, để xác định khả năng tiên liệu, thông tin nhận được sau khi ký kết hợp đồng

nhưng trước khi bắt đầu thực hiện hợp đồng cần phải được xem xét [123, tr.209]. Các

tác giả khác như Will, Liu, Maskow và Flechtner cũng đồng quan điểm với tác giả

Honnold [118; 113; 132; 95]. Ví dụ: Hợp đồng mua bán hàng hóa để sản xuất, người

mua đã thông báo cho người bán sau khi ký kết hợp đồng nhưng trươc khi bắt đầu thực

Page 96: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

91

hiện hợp đồng rằng việc in dữ liệu đã thỏa thuận lên bao bì là điều có ý nghĩa quan

trọng quyết định bởi vì nếu không hàng hóa không thể được bán ở khu vực buôn bán

dự tính được. Nếu người bán bỏ qua thông báo này, vi phạm sẽ bị xem như đủ thỏa

mãn tính chất cơ bản [113, tr.75; 132, tr.221].

Trên cơ sở nguyên tắc thiện chí, Công ước cũng như pháp luật hợp đồng nói

chung khuyến khích các bên thực hiện đúng hợp đồng [140, tr.129]. Nếu sau khi ký

kết hợp đồng, người bán biết về tổn hại đáng kể mà người mua phải gánh chịu do hành

vi vi phạm của mình gây ra thì anh ta nên cố gắng khắc phục vi phạm đó cũng như hậu

quả do vi phạm đó gây ra – những gì người mua kỳ vọng từ hợp đồng bị tước đi đáng

kể. Hơn nữa, nếu một bên được thông báo rằng tổn hại đáng kể có khả năng xảy ra do

hành vi vi phạm của mình nhưng anh ta vẫn cố tình vi phạm hoặc từ chối khắc phục vi

phạm thì chính hành vi đó của anh ta đã đi ngược mới mục đích khuyến khích các bên

thực hiện đúng hợp đồng của Công ước Viên. Vì thế, việc giới hạn thời điểm tiên liệu

là thời điểm ký kết hợp đồng càng khuyến khích người bán có những hành vi cố ý

hoặc không khắc phục vi phạm cũng như hậu quả do vi phạm gây ra. Hơn nữa, nguyên

tắc thiện chí đòi hỏi thúc đẩy hợp tác giữa các bên [11, Điều 60]. Người mua phải hợp

tác với người bán để tạo thuận lợi cho người bán giao hàng [11, Điều 60]. Trái lại,

người bán phải hợp tác với người mua để bảo vệ lợi ích của người mua [11, Điều 30-

34]. Chẳng hạn, khi người bán không phải bảo hiểm hàng hóa dọc đường, người bán

phải cung cấp thông tin để người mua mua được bảo hiểm hàng hóa [11, khoản 3 Điều

32]. Chính vì thế, dựa trên nguyên tắc thiện chí, tác giả Graffi và Liu cho rằng, thời

điểm xem xét khả năng tiên liệu được xác định sau thời điểm ký kết hợp đồng và khi

có vi phạm hợp đồng [126, tr.341; 95].

Ngoài ra, việc tồn tại nguyên tắc khắc phục trong Công ước nhằm mục đích là

giữ cho hợp đồng được thực hiện nếu có một cơ hội để khắc phục vi phạm hoặc hậu

quả nghiêm trọng của vi phạm [90, tr.92]. Cho nên, việc giải thích quy định về khả

năng tiên liệu phải xem xét đến mục đích này và do đó, thời điểm tiên liệu là thời điểm

sau khi ký kết hợp đồng và khi vi phạm hợp đồng - khi bên vi phạm có cơ hội khắc

phục hậu quả của hành vi vi phạm [126, tr.341; 95].

Từ phân tích trên, người viết cho rằng, thời điểm tiên liệu được tổn hại đáng kể

không nên là “thời điểm giao kết hợp đồng” bởi: (1) Khi giao kết hợp đồng, trong điều

kiện bình thường, không bên nào tiên liệu được là sẽ vi phạm hợp đồng để có thể tiên

Page 97: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

92

liệu được hậu quả của nó; (2) Đối tượng mà bên vi phạm có khả năng tiên liệu được ở

đây là hậu quả của hành vi vi phạm. Điều này có nghĩa là khả năng tiên liệu được và

thời điểm tiên liệu phải gắn với hành vi vi phạm. Chính vì vậy, thời điểm này cần xác

định đồng thời với thời điểm xảy ra vi phạm. Khi không thực hiện hoặc có ý định

không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng thì với kiến thức và

chuyên môn của một người ở vào địa vị tương tự cũng có thể “hình dung” được hành

vi của mình gây hậu quả hoặc có khả năng gây hậu quả cho bên bị vi phạm như thế

nào. Thực tế, chỉ có những người không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi

của mình thì mới “không thể” biết được hậu quả do hành vi của mình gây ra. Việc sử

dụng thời hiện tại “what he is entitled to expect under the contract”)” có thể thấy rằng

thẩm phán nên đặt mình vào thời điểm xảy ra vi phạm [82].

(3) Với hậu quả nghiêm trọng của hủy hợp đồng, câu hỏi đặt ra là tại sao bên vi

phạm không viện dẫn khả năng tiên liệu như là yếu tố loại trừ khả năng hợp đồng bị

hủy hay loại trừ vi phạm cơ bản hợp đồng. Phải chăng, khả năng tiên liệu hậu quả của

hành vi vi phạm quy định tại Điều 25 Công ước Viên là thừa, không cần thiết?

Như đã phân tích ở trên, người viết cho rằng nếu các bên thỏa thuận rõ ràng

hoặc ngầm định rằng việc tuân thủ nghiêm khắc các điều khoản hợp đồng là cơ

bản/chủ yếu và bất kỳ sự vi phạm nào đối với các điều khoản đó thì bị coi như là vi

phạm cơ bản, lúc đó bên vi phạm không thể viện dẫn không có khả năng tiên liệu.

Trong những trường hợp này, tổn hại đáng kể là tiêu liệu được đối với người ở cùng

địa vị và hoàn cảnh tương tự với bên vi phạm. Schlechtriem và Koch đã nhấn mạnh

rằng “chỉ khi tầm quan trọng cụ thể của nghĩa vụ bị vi phạm không được quy định

trong hợp đồng cũng như không được thương thảo trong quá trình đàm phán hợp đồng

thì khả năng tiên liệu là yếu tố có liên quan để xem xét tính cơ bản của hành vi vi

phạm hợp đồng [144, tr.284]. Nói cách khác, khả năng tiên liệu chỉ liên quan nếu tổn

hại đáng kể không được truyền đạt/thông tin trước hoặc vào thời điểm ký kết hợp

đồng. Do đó, khả năng tiên liệu chỉ phát sinh khi thông tin liên quan đến tổn hại đáng

kể đến được với bên vi phạm sau khi ký kết hợp đồng.

Ngoài ra, thậm chí điều khoản cơ bản không quy định rõ trong hợp đồng nhưng

được trao đổi với bên vi phạm thông qua đàm phán hoặc thư từ trước khi ký hợp đồng

thì khoản 3 Điều 8 Công ước Viên sẽ áp dụng cho tình huống như đàm phán trước hợp

đồng và bên vi phạm không thể biện minh rằng anh ta không tiêu liệu được vấn đề đã

Page 98: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

93

được trao đổi. Vì thế, nếu thời điểm tiên liệu có liên quan là thời điểm ký kết hợp

đồng, khi đó khả năng tiên liệu là không cần thiết/thừa, vì nó không phục vụ cho mục

đích bổ sung cho những quy định khác trong Công ước. Nếu giảm tầm quan trọng của

tổn hại đáng kể khi xác định tổn hại bằng việc dẫn chiếu tới những gì các bên thực sự

kỳ vọng từ hợp đồng, khả năng tiên liệu sẽ mất đi chức năng của nó vì lý do tổn hại

không tiên liệu được [144, tr.284]. Vì thế, người viết cho rằng, yếu tố khả năng tiên

liệu hậu quả do hành vi vi phạm gây ra sẽ đáp ứng mục đích chức năng hơn nữa nếu

thời điểm tiên liệu vượt ra ngoài giới hạn thời điểm ký kết hợp đồng, tức là sau khi ký

kết hợp đồng và khi vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, chính điều này sẽ gây thêm khó

khăn, tăng “cảm tính” trong việc xác định tính cơ bản của hành vi vi phạm bởi cơ quan

giải quyết tranh chấp cũng như lý lẽ, căn cứ thiếu tường minh cho bên vi phạm viện

dẫn nhằm thoát khỏi vi phạm cơ bản hợp đồng, gây thêm bất lợi cho bên bị vi phạm

khi không muốn duy trì hợp đồng vì những gì anh ta kỳ vọng có được từ hợp đồng đã

bị tước đi đáng kể. Đặc biệt hơn nữa, thời điểm xem xét khả năng tiên liệu thiếu rõ

ràng càng làm cho quy định về khả năng tiên liệu hậu quả của hành vi vi phạm trở nên

khó khăn hơn.

Kết luận Chương 3

Qua nghiên cứu ở Chương 3 có thể thấy khi các bên không có thỏa thuận, việc

xác định tính cơ bản của vi phạm hợp đồng theo Công ước Viên dựa vào các yếu tố:

Có tổn hại đáng kể của bên bị vi phạm; Những gì bên bị vi phạm có quyền kỳ vọng từ

hợp đồng bị tước đi đáng kể và khả năng tiên liệu được hậu quả do hành vi vi phạm

gây ra.

(1) Vi phạm hợp đồng của bên vi phạm có thể là vi phạm thực tế hoặc vi phạm

dự đoán trước. Tuy nhiên, tổn hại - yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng

quy định tại Điều 25 Công ước Viên không hẳn là yếu tố tiên quyết, cần phải có, đặc

biệt khi mà người bán hoặc người mua không thực hiện hợp đồng. Sự thực hiện hợp

đồng của các bên là kỳ vọng đầu tiên của mỗi bên khi xác lập và thực hiện hợp đồng,

vì vậy không thực hiện hợp đồng thì không có cơ sở cho sự tồn tại của các mong đợi

tiếp theo từ hợp đồng. Tòa án, trọng tài, do vậy, chỉ xem xét đến sự không thực hiện

hợp đồng đó có tước đi đáng kể những gì các bên kỳ vọng từ hợp đồng không.

(2) Những gì bên bị vi phạm có quyền kỳ vọng hợp đồng là lợi ích kinh tế, cũng

chính là mục đích vì đó mà giao dịch mua bán hàng hóa được xác lập. Không thực

Page 99: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

94

hiện nghĩa vụ hợp đồng của người bán hoặc người mua cấu thành vi phạm cơ bản, thỏa

mãn yếu tố tước đi đáng kể của bên bị vi phạm những gì anh ta kỳ vọng từ hợp đồng

mà không nhất thiết phải gây ra tổn hại thực tế hay tổn hại cụ thể nào. Tòa án, trọng tài

không chỉ giải thích những gì bên vi phạm kỳ vọng từ hợp đồng xuất phát từ Điều 25

Công ước Viên mà còn dựa vào Điều 35 Công ước Viên, theo đó mục đích mua hàng

(mục đích sử dụng của hàng hoặc mục đích bán lại hàng hóa) cũng được xem xét khi

xác định tính cơ bản của vi phạm hợp đồng.

(3) Khả năng tiên liệu được hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng là yếu tố tạo

cơ hội cho bên vi phạm được quyền chứng minh làm cơ sở xem xét tồn tại hay không

tồn tại vi phạm cơ bản hợp đồng. Tuy nhiên, khi xem xét yếu tố này, việc dựa trên

“người có lý trí ở vào địa vị và hoàn cảnh tương tự” là không cần thiết và gây khó

khăn đối với xác định tính cơ bản của vi phạm hợp đồng từ phía bên vi phạm. Bên

cạnh đó, chính thời điểm tiên liệu làm cho quy định về khả năng tiên liệu càng trở nên

khó áp dụng hơn đối với bên vi phạm, khó khăn và tăng “cảm tính” cho cơ quan tài

phán khi xem xét vấn đề này.

Khi một bên vi phạm cơ bản hợp đồng, bên kia có quyền áp dụng các chế tài

nhằm kịp thời đảm bảo những gì mà mình kỳ vọng từ hợp đồng. Các chế tài được áp

dụng khi có vi phạm cơ bản hợp đồng xem như hệ quả pháp lý do vi phạm cơ bản hợp

đồng. Chương 4 tập trung làm rõ vấn đề này.

Page 100: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

95

CHƯƠNG 4

CHẾ TÀI DO VI PHẠM CƠ BẢN HỢP ĐỒNG THEO CÔNG ƯỚC VIÊN

Đối với mỗi hành vi vi phạm hợp đồng MBHHQT hợp pháp và có hiệu lực đều

kéo theo những hệ quả pháp lý nhất định – bị áp dụng các chế tài xử lý tương ứng. Khi

một bên vi phạm cơ bản hợp đồng, nếu các bên không có thỏa thuận, thì bên bị vi

phạm có quyền áp dụng những chế tài đối với hành vi vi phạm cơ bản hợp đồng theo

quy định của Công ước Viên mà việc áp dụng những chế tài đó sẽ dẫn đến hậu quả

pháp lý bất lợi cho bên vi phạm.

Quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng chỉ có thể tồn tại và có ý nghĩa khi là căn

cứ quan trọng dẫn đến hệ quả pháp lý cho phép bên bị vi phạm áp dụng chế tài yêu cầu

giao hàng thay thế và chế tài hủy hợp đồng – chế tài mang lại hậu quả pháp lý nặng nề

nhất.

4.1. Khái quát về chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên (có so

sánh với pháp luật Việt Nam)

Nếu các bên trong hợp đồng (theo Công ước Viên) thực hiện đúng như những

gì đã cam kết, rõ ràng họ sẽ không phải gánh chịu những hệ quả pháp lý bất lợi (chế

tài), trái lại các chế tài thương mại của Công ước sẽ được áp dụng như là hệ quả pháp

lý tất yếu để xử lý hành vi vi phạm của bên vi phạm nhằm cân bằng lợi ích, kịp thời

bảo vệ lợi ích cho bên bị vi phạm. Ngay cả khi bên bán hoặc bên mua trong hợp đồng

nào đó không thực hiện nghĩa vụ của mình, thì hợp đồng giữa họ đã có thể bao gồm

điều khoản xác định các chế tài được áp dụng; khi đó, biện pháp bảo hộ mặc định

trong Phần III của Công ước sẽ được thay thế bởi điều khoản các bên thỏa thuận trong

hợp đồng.

Tuy vậy, báo cáo hàng trăm vụ tranh chấp theo Công ước đã xác nhận rằng các

toà án và trọng tài viên thường phải sử dụng hệ thống các chế tài thương mại của Công

ước [163]. Vì sao những quy tắc này được sử dụng nhiều như vậy? Lý do rất hiển

nhiên biểu hiện trong chính hợp đồng của các bên, chẳng hạn: Khi các bên chỉ quy

định trong thư điện tử điều khoản về hàng hoá (cái gì, bao nhiêu) và giá cả của chúng

mà quên mất các nội dung khác. Ngay cả những hợp đồng mua bán hàng hoá chi tiết

hơn cũng chỉ có điều khoản liên quan đến nghĩa vụ của các bên, chứ không chú trọng

tới tình huống khi một bên không thực hiện hợp đồng và hậu quả có thể xảy ra. Trong

Page 101: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

96

trường hợp đó, các toà án và trọng tài viện dẫn tới Công ước để lấp đầy lỗ hổng thiếu

vắng các chế tài thương mại.

Công ước Viên không có một chương riêng về vi phạm hợp đồng và chế tài do

hành vi vi phạm hợp đồng. Vấn đề này được quy định rải rác ở các phần khác nhau, cụ

thể là từ Điều 45 đến Điều 52 Công ước Viên liệt kê các chế tài áp dụng cho hành vi

vi phạm hợp đồng của bên bán và từ Điều 61 đến Điều 65 Công ước Viên liệt kê các

chế tài áp dụng cho hành vi vi phạm hợp đồng của bên mua và từ Điều 71 đến Điều

84 Công ước Viên về các điều khoản chung cho nghĩa vụ của bên bán, bên mua.

Theo đó, những chế tài mà bên mua có thể áp dụng khi bên bán vi phạm hợp đồng

bao gồm (i) buộc bên bán phải thực hiện nghĩa vụ giao hàng, quyền sở hữu hàng hóa

và các chứng từ liên quan đến hàng, (ii) hủy hợp đồng, (iii) giảm giá hàng, (iv) yêu

cầu bồi thường thiệt hại; còn những chế tài mà bên bán có thể áp dụng khi bên mua

vi phạm hợp đồng bao gồm (i) buộc bên mua phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền, nhận

hàng hay các nghĩa vụ khác của bên mua, (ii) hủy hợp đồng, (iii) yêu cầu bồi thường

thiệt hại. Cách sắp xếp như vậy khiến việc tra cứu rất thuận lợi, mặt khác, cho thấy

được tinh thần tạo ra sự bình đẳng pháp lý giữa bên bán và bên mua trong hợp đồng

mua bán hàng hóa. Như vậy, hệ thống chế tài khác nhau trong Công ước Viên có thể

sắp xếp thành 3 nhóm gồm: (1) Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, dùng để yêu

cầu bên vi phạm (người bán và người mua) phải thực hiện nghĩa vụ của mình như đã

thỏa thuận (giao hàng, thanh toán tiền hàng, v.v…); (2) Chế tài bồi thường thiệt hại,

yêu cầu giảm giá hàng bán; (3) Chế tài hủy hợp đồng cho phép bên bị vi phạm được

hủy hợp đồng, để từ đó giải phóng các bên khỏi những nghĩa vụ của họ trong hợp đồng

[139, tr.80].

Xem xét vị trí sắp xếp các điều khoản trong phần III của Công ước, dễ dàng

nhận thấy chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là chế tài cơ bản đầu tiên được áp

dụng. Ý nghĩa của chế tài này là: khi một bên không thực hiện nghĩa vụ theo hợp

đồng, thì chế tài “tự nhiên” nhất [141, tr.53] là trực tiếp yêu cầu bên vi phạm phải thực

hiện nghĩa vụ của mình như: yêu cầu người bán giao hàng như đã thoả thuận, khắc

phục khi giao hàng còn thiếu sót, giao hàng thay thế hoặc (trong trường hợp người

mua vi phạm) yêu cầu người mua thanh toán theo giá đã thoả thuận. Tuy nhiên, logic

này có vẻ rất xa lạ đối với quan điểm của của hệ thống luật Anh- Mỹ, bởi hệ thống luật

Page 102: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

97

này chỉ đề cập đến chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng như là một biện pháp bảo hộ

“ngoại lệ” [127, tr.42]. Trên thực tế, các quy tắc của Công ước trong vấn đề này cho

thấy sự thỏa hiệp giữa quan điểm của hệ thống luật châu Âu lục địa và của hệ thống

luật Anh- Mỹ, và việc bên có quyền yêu cầu bên kia thực hiện đúng hợp đồng đang

gặp phải nhiều hạn chế quan trọng bởi bên cạnh những yêu cầu trong Điều 46, toà án

không bị bắt buộc phải ra phán quyết buộc thực hiện đúng hợp đồng trừ khi phải tuân

thủ luật riêng của toà án đó đối với những hợp đồng mua bán mà Công ước không điều

chỉnh [11, Điều 28].

Trong xã hội phát triển nhanh như ngày nay, hầu hết các thương gia không có

thời gian để chờ đợi toà án yêu cầu một bên thực hiện đúng hợp đồng và phần lớn án

lệ theo Công ước cho thấy lợi ích người mua đạt được khi áp dụng chế tài thay thế (bồi

thường thiệt hại bằng tiền hoặc hủy hợp đồng) là quan trọng hơn nhiều trong thực tiễn,

còn chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng chỉ có ý nghĩa hơn khi thúc ép người mua

thực hiện nghĩa vụ thanh toán với người bán. Bên cạnh bồi thường thiệt hại, Công ước

cũng cho phép người mua áp dụng chế tài có liên quan đến tiền ở phạm vi hạn chế hơn

mà các luật gia của hệ thống luật châu Âu lục địa thường viện tới là “giảm giá tương

ứng” [11, Điều 50]. Khi bên vi phạm phải chịu trách nhiệm, mức độ bồi thường đối

với bên bị thiệt hại sẽ được tính toán dựa trên khả năng tiên liệu [11, Điều 74].

Khi có hành vi vi phạm hợp đồng, người mua hoặc người bán có quyền áp dụng

chế tài nào phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể và các quy tắc của Công ước Viên

[146]. Tất nhiên, khi đã sử dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng thì các bên sẽ

không được dùng chế tài huỷ hợp đồng, nhưng quyền yêu cầu thực hiện đúng hợp

đồng hoặc huỷ hợp đồng sẽ không loại trừ quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Trong các chế tài nói trên, vi phạm cơ bản hợp đồng là căn cứ quan trọng để

bên bị vi phạm áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng bằng cách yêu cầu giao

hàng thay thế hoặc áp dụng chế tài hủy hợp đồng. Vì hậu quả của hủy hợp đồng là giải

phóng các bên khỏi những nghĩa vụ của họ theo hợp đồng, nên Công ước đã đặt ra giới

hạn cho chế tài có hậu quả pháp lý nặng nhất này – bằng cách chỉ áp dụng hủy hợp

đồng chỉ khi không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng cấu thành vi phạm cơ bản, và nới

rộng quyền của người bán được “khắc phục” hàng hóa đã giao có khiếm khuyết.

Những quy tắc của Công ước cũng điều chỉnh vấn đề vi phạm hợp đồng dự đoán trước

Page 103: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

98

có liên quan chặt chẽ với huỷ hợp đồng (do vi phạm cơ bản). Như vậy, đối với trường

hợp bên bán vi phạm cơ bản, cả Công ước Viên và Luật Thương mại đều trao cho bên

bị vi phạm quyền hủy hợp đồng. Khác với Luật Thương mại, đối với chế tài buộc thực

hiện đúng hợp đồng, Công ước Viên đã trao cho người mua quyền yêu cầu người

bán giao hàng thay thế khi hành vi giao hàng hóa không phù hợp của người bán cấu

thành vi phạm cơ bản. Cũng cùng căn cứ trên hành vi vi phạm cơ bản hợp đồng khi

các bên không có thỏa thuận cụ thể, khác với Công ước Viên, Luật Thương mại còn

quy định thêm chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng và đình chỉ thực hiện hợp đồng.

Quy tắc đã được dự liệu tại Điều 49 và Điều 64 Công ước Viên, đó là: chỉ khi

một bên không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng thì

bên kia có quyền hủy hợp đồng. Vi phạm cơ bản hợp đồng cũng được sử dụng như là

căn cứ để áp dụng chế tài hủy hợp đồng trong một số tình huống đặc biệt như: người

mua có thể tuyên bố hủy hợp đồng nếu việc không giao hàng đầy đủ hoặc phù hợp với

hợp đồng cầu thành vi phạm cơ bản hợp đồng (khoản 2 Điều 51), hủy hợp đồng đối

với vi phạm dự đoán trước (Điều 72) và giao hàng từng phần (Điều 73). Bên cạnh đó,

vi phạm cơ bản hợp đồng còn là điều kiện tiên quyết đối với quyền yêu cầu giao hàng

thay thế nếu hàng hóa được giao không phù hợp với hợp đồng (khoản 2 Điều 46). Vì

vậy, vi phạm cơ bản hợp đồng đã tạo ra “ranh giới” giữa các chế tài “thông thường” do

vi phạm hợp đồng như bồi thường thiệt hại, giảm giá hàng hóa với chế tài “nặng nề”

như hủy hợp đồng hay phải thay thế hàng hóa. Điều 70 Công ước Viên quy định “nếu

người bán vi phạm cơ bản hợp đồng thì các quy định của Điều 67, Điều 68, Điều 69

Công ước Viên không ảnh hưởng đến quyền của người mua sử dụng các chế tài đối

với vi phạm đó”. Tuy nhiên, vi phạm cơ bản hợp đồng có ý nghĩa quan trọng nhất ở

chỗ vi phạm cơ bản hợp đồng là điều kiện tiên quyết được dùng để áp dụng chế tài hủy

hợp đồng.

Thực tiễn, tính đến 3/2015, số vụ tranh chấp có áp dụng Điều 25 công bố tại Cơ

sở dữ liệu của Trường Đại học Luật Pace của Hoa Kỳ là 392 vụ (chiếm khoảng 13%

trong tổng số 3023 vụ tranh chấp) [171].

Page 104: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

99

Người mua hủy hợp

đồng, 186Người bán hủy hợp đồng, 57

Hủy hợp đồng do VPCB dự

đoán trước, 67

Giao hàng thay thế, 15

Hình 1. Số lượng vụ kiện có áp dụng Điều 25 (tính theo quốc gia thành viên)

0

20

40

60

80

100

120

Số vụ kiện

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ website www.cisg.law.pace.edu

Nhìn vào Biểu đồ có thể thấy số lượng vụ tranh chấp có áp dụng Điều 25 của

Công ước Viên chủ yếu được giải quyết bởi tòa án và/hoặc trọng tài tại Trung Quốc

(99 vụ), Đức (79 vụ), Thụy Sĩ (32 vụ), Nga (26 vụ) và Tân Ban Nha (23 vụ). Ngoài ra,

các vụ tranh chấp áp dụng quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng với số lượng ít ở một

số quốc gia khác như: Ba Lan, Cu Ba, Hungary, Latvia, Hàn Quốc, Mexico, Ukraine,

Canada, Hy Lạp, Phần Lan, Đan Mạch, Úc.

Số liệu thống kê bởi UNCITRAL cho thấy số vụ tranh chấp về hủy hợp đồng

chủ yếu tập trung là do vi phạm từ phía người bán, với 186 vụ, trong khi đó rất ít vụ

tranh chấp về giao hàng thay thế (15 vụ) (xem Hình 2).

Hình 2. Chế tài áp dụng khi có vi phạm cơ bản hợp đồng

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ website www.cisg.law.pace.edu

Có thể thấy, vi phạm cơ bản hợp đồng quy định tại Điều 25 chủ yếu được vận

dụng để lý giải cho việc áp dụng chế tài hủy hợp đồng khi người bán hoặc người mua

Page 105: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

100

vi phạm cơ bản hợp đồng khi hết thời hạn thực hiện hợp đồng hoặc trước thời hạn thực

hiện hợp đồng (vi phạm dự đoán trước).

4.2. Quy định và thực tiễn áp dụng chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công

ước Viên

4.2.1. Hủy hợp đồng

Hủy hợp đồng là hệ quả pháp lý nặng nhất mà bên vi phạm phải gánh chịu

khi có vi phạm hợp đồng MBHHQT, thể hiện ở chỗ: hợp đồng chấm dứt hiệu lực kể

từ thời điểm giao kết (hay hủy hợp đồng có hiệu lực hồi tố), bên nào đã thực hiện

toàn bộ hay một phần có thể đòi bên kia hoàn trả những gì họ đã cung cấp hay đã

thanh toán theo hợp đồng. Hủy hợp đồng sẽ giải phóng hai bên khỏi việc thực hiện

nghĩa vụ hợp đồng của họ, trừ khi có thiệt hại phải bồi thường. Chính vì các bên

không tiếp tục thực hiện hợp đồng kể từ thời điểm hợp đồng bị hủy bỏ và hoàn trả

cho nhau tất cả những gì đã nhận được từ nhau, nên hủy hợp đồng sẽ ảnh hưởng rất

lớn đến hoạt động kinh doanh bình thường của các bên xác lập và thực hiện hợp

đồng. Với ý nghĩa đó, trừ khi các bên có thỏa thuận về hủy hợp đồng, Công ước

Viên cũng như pháp luật của một số nước trên thế giới không cho phép các bên “tùy

tiện” hủy hợp đồng khi không có cơ sở, căn cứ hợp pháp.Vi phạm cơ bản hợp đồng

chính là căn cứ quan trọng đó để người bán và người mua có thể tuyên bố hủy hợp

đồng.

Hủy hợp đồng là một trong những quy định quan trọng của Công ước Viên, là

biện pháp cuối cùng khi người bán hoặc người mua không muốn tiếp tục thực hiện hợp

đồng. Điều 49 và Điều 64 Công ước Viên quy định các trường hợp để người bán hoặc

người mua có quyền tuyên bố hủy hợp đồng khi vi phạm hợp đồng của bên kia là vi

phạm cơ bản theo Điều 25 Công ước Viên, đó là: (i) Người bán hoặc người mua không

thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; (ii) Người bán giao hàng không phù hợp với hợp đồng;

(iii) Một bên có hành vi vi phạm cơ bản hợp đồng dự đoán trước theo khoản 1 Điều 72

và khoản 2 Điều 73 Công ước Viên khi có lý do xác đáng để cho rằng có thể có vi

phạm cơ bản hợp đồng giao hàng từng phần trong tương lai.

4.2.1.1. Hủy hợp đồng khi một bên không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng cấu

thành vi phạm cơ bản

Hợp đồng MBHHQT được giao kết hợp pháp và có hiệu lực làm phát sinh

quyền và nghĩa vụ của các bên hợp đồng đối với nhau. Các bên có quyền và nghĩa vụ

Page 106: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

101

tương đương nhau trong quá trình thực hiện hợp đồng. Vì vậy, không thực hiện bất kỳ

nghĩa vụ nào mà hợp đồng hoặc Công ước quy định là hành vi vi phạm hợp đồng.

(i) Đối với người bán

Theo Công ước Viên, người bán có nghĩa vụ giao hàng (Điều 30, 31) và giao

hàng phù hợp với hợp đồng (Điều 30, 35), chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa cho

người mua đảm bảo không bị ràng buộc bởi bất cứ quyền hạn hay khiếu nại nào của

bên thứ ba (Điều 30, 41), chuyển giao chứng từ liên quan đến hàng hóa cho người

mua theo hợp đồng hoặc tập quán (Điều 30, 34). Nếu người bán vi phạm bất kỳ

nghĩa vụ nào mà các bên không có thỏa thuận về hủy hợp đồng thì người mua có

quyền tuyên bố hủy hợp đồng nhưng chỉ khi người bán không thực hiện nghĩa vụ

theo hợp đồng hoặc Công ước, tức là không giao hàng, không giao chứng từ liên

quan đến hàng hoặc quyền sở hữu hàng hóa cho ngươi mua, nhưng việc không thực

hiện nghĩa vụ này của người bán cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng, tức là thỏa

mãn các yếu tố xác định vi phạm cơ bản hợp đồng quy định tại Điều 25 Công ước

Viên [11, điểm a khoản 1 Điều 49].

Như đã phân tích ở chương 3, tòa án, trọng tài của một số quốc gia thành viên

Công ước đều thống nhất nhận định rằng, không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng như

không giao hàng, không giao chứng từ liên quan đến hàng và quyền sở hữu hàng

hóa cho người mua đều thỏa mãn yếu tố cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng quy

định tại Điều 25. Khi giao kết hợp đồng, người mua kỳ vọng nhận được hàng – đối

tượng hợp đồng, vì thế những hành vi vi phạm này xem như đã gây ra cho người

mua tổn hại đáng kể, không cần phải là tổn hại trong thực tế, tước đi của người mua

những gì người mua có quyền kỳ vọng từ hợp đồng. Ví dụ: Hành vi không giao

hàng của người bán trong vụ “Rabbit skin” [209], vụ “Compound fertilizer” [196],

vụ Ostroznik savo [248], vụ “Cheese” [235], vụ Black melon seeds [199], vụ used

printing press [240] và vụ Silicon-carbide [202] đều bị coi là vi phạm cơ bản hoặc

hành vi không giao chứng từ liên quan đến hàng hóa bị coi là cấu thành vi phạm cơ

bản và người mua có quyền tuyên bố hủy hợp đồng trong các vụ Fluorite [210], vụ

Medical equipment [262]. Tòa án, trọng tài không chỉ xem xét hành vi vi phạm của

người mua khi hết thời hạn thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc Công ước mà tòa

án, trọng tài còn xem xét cả việc không thực hiện nghĩa vụ của người bán trong thời

hạn mà người mua đã gia hạn thêm để làm cơ sở xác định những gì người mua có

Page 107: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

102

quyền kỳ vọng từ hợp đồng đã bị tước đi đáng kể, từ đó xác định vi phạm cơ bản hợp

đồng và cho phép người mua áp dụng chế tài hủy hợp đồng.

Hành vi không giao hàng của người bán đôi khi còn được thể hiện dưới hình

thức từ chối giao hàng. Đối với trường hợp người bán từ chối giao hàng, Tòa án Đức

kết luận là không giao hàng và việc từ chối giao hàng cũng cấu thành vi phạm cơ bản

hợp đồng. Quan điểm này của Tòa án được thể hiện trong vụ “Furniture leather”

[225], vụ tranh chấp giữa người bán Ý và người mua Đức, theo đó người bán đã từ

chối giao mặt hàng da để làm đồ gia dụng vì họ cho rằng họ không có trách nhiệm

thực hiện hợp đồng do đại lý của họ ký kết. Tuy nhiên, trên thực tế, người bán đã giao

một phần hàng hóa cho người mua. Chính vì vậy, Tòa phúc thẩm Munchen (Đức) đã

không đồng tình với luận điểm của người bán và cho rằng: “việc người bán từ chối

giao hàng do cho rằng hợp đồng bị hủy không chỉ mâu thuẫn với việc anh ta đã giao

một phần hàng hóa mà còn cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng theo Điều 49(1)(a)

Công ước Viên”. Do đó, Tòa phúc thẩm Munchen (Đức) phán quyết rằng người mua

có quyền tuyên hủy hợp đồng.

Bên cạnh đó, giao hàng đúng thời gian là yêu cầu bắt buộc theo quy định của

Công ước đối với người bán [11, Điều 33]. Trong thực tiễn, giao hàng không đúng thời

gian không phải lúc nào cũng cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng cho dù hợp đồng

quy định giao hàng vào một thời điểm cụ thể. Tòa án hoặc trọng tài đều thống nhất

rằng, ngày giao hàng cụ thể là yếu tố cơ bản của hợp đồng khi và chỉ khi người bán đề

cập trong hợp đồng. Nếu việc giao hàng vào một ngày cụ thể không được nhấn mạnh,

không thể hiện rõ lợi ích của người mua trong việc người bán giao hàng đúng ngày cụ

thể quy định trong hợp đồng thì người bán không giao hàng vào ngày cụ thể đó không

cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng. Chẳng hạn, vụ “Mobile car phones” [228]: Tranh

chấp hợp đồng mua bán điện thoại ô tô giữa người bán Đức và người mua Israel.

Trong tranh chấp này, về việc người bán không giao hàng đúng thời gian quy định,

Tòa án tỉnh Düsseldorf (Đức) đã phán quyết rằng: Vi phạm trong việc giao hàng không

đúng thời gian hợp đồng quy định được coi là vi phạm cơ bản hợp đồng theo tinh thần

của Điều 25 Công ước Viên nếu hai bên đã quy định trong hợp đồng rằng thời gian

giao hàng là một thời điểm cố định và nếu hai bên đều nhận thức rõ ràng rằng việc

giao hàng cần phải được thực hiện ở thời điểm cụ thể đó. Tòa án cũng nhấn mạnh

rằng, một vi phạm cơ bản hợp đồng thường không chỉ đơn thuần được xác định căn cứ

Page 108: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

103

vào hành động giao hàng không đúng thời điểm quy định mà hơn thế nữa, việc tuân

thủ chính xác thời hạn giao hàng phải thực sự cần thiết đối với người mua, hay cụ thể

hơn, người mua thà rằng không nhận được hàng còn hơn là nhận được hàng giao

không đúng thời gian (giao chậm) và người bán phải ý thức được việc này từ thời điểm

giao kết hợp đồng. Tòa án tỉnh Düsseldorf (Đức) trong vụ “Shoes” [231] đã từng nhấn

mạnh rằng, tính quan trọng đặc biệt của thời gian giao hàng có thể được xác định từ

chính trong quy định của hợp đồng, chẳng hạn trong trường hợp một giao dịch khi thời

gian là thiết yếu hay trong những tình huống như hàng giao là hàng thời vụ. Trong vụ

“Shoes”, rõ ràng hai bên đã không quy định đây là một giao dịch rất quan trọng về mặt

thời gian. Đối tượng của hợp đồng không phải là hàng thời vụ và việc giao hàng không

đúng thời gian quy định cũng sẽ không tước đi của người mua các lợi ích mà người

mua mong đợi từ hợp đồng. Điều này có thể thấy rõ ràng từ thực tế rằng người mua đã

chấp nhận một phần hàng giao theo hợp đồng thậm chí 4 tháng sau thời điểm giao

hàng quy định ban đầu.

Quan điểm tương tự Tòa sơ thẩm tỉnh Düsseldorf (Đức) được Trọng tài

CIETAC đưa ra trong Vụ Cold-rolled coils [201] (tranh chấp giữa người bán Đức và

người mua TQ), theo đó ngày giao hàng cụ thể là yếu tố cơ bản của hợp đồng chỉ khi

người bán đề cập trong hợp đồng. Tuy nhiên, trong vụ việc này người bán lại không

nhấn mạnh ngày giao hàng trong hợp đồng.

Cũng cần lưu ý rằng, mặc dù hợp đồng quy định một thời gian giao hàng cụ thể

và người bán đã giao hàng không đúng thời gian quy định đó nhưng Tòa án không coi

việc vi phạm đó là vi phạm cơ bản dựa trên việc xem xét lợi ích của người mua có bị

tước đi do hành vi giao hàng chậm hay không. Cụ thể, vụ “Clothes” [229]: tranh chấp

hợp đồng mua bán quần áo giữa người bán Pháp và người mua Đức. Trong tranh chấp

này, người bán đã giao hàng chậm hơn hai ngày cho người chuyên chở theo quy định

hợp đồng. Người mua cho rằng, việc người bán giao hàng không đúng thời gian quy

định đã khiến hàng hóa trở nên “vô dụng” vì không thể được đem trưng bày tại cửa

hàng vào đầu mùa hè. Tuy nhiên, Tòa AG Ludwigsburg (Đức) đã bác lại quan điểm

của người mua khi cho rằng vi phạm của người bán không phải là vi phạm cơ bản hợp

đồng theo quy định của Điều 25 Công ước Viên bởi lẽ hàng hóa không hề mất chút giá

trị nào do việc giao hàng không đúng thời gian quy định và việc người mua có thể giới

thiệu hàng cho khách hàng chậm hơn hai ngày chỉ ảnh hưởng rất ít tới lợi ích của họ.

Page 109: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

104

Quan điểm này của Tòa AG Ludwigsburg (Đức) cũng tương tự quan điểm của Tòa

Oldenburg (Đức) trong vụ “Clothes” [233]. Đây là tranh chấp giữa người bán Ý và

người mua Đức, theo đó người bán đã giao hàng chậm hai ngày. Tòa án Oldenburg

(Đức) đã cho rằng do thiếu các quy định cụ thể hơn trong hợp đồng, việc giao hàng

chậm hai ngày không bị coi là vi phạm cơ bản vì việc giao hàng chậm như vậy đã

không làm cho người mua bị tước đi bất kỳ lợi ích gì (tương tự vụ Bullet-proof vest

[242] và vụ Macromex Srl. v. Globex International, Inc [264]).

(ii) Đối với người mua

Đối với người mua, nghĩa vụ của người mua theo Công ước Viên là thanh

toán tiền hàng và nhận hàng [11, Điều 53]. Vì vậy, khi người mua vi phạm nghĩa vụ

này mà các bên không có thỏa thuận về hủy hợp đồng thì người bán có quyền tuyên

bố hủy hợp đồng khi người mua không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc Công

ước, tức là không thanh toán tiền hàng và nhận hàng, nhưng việc không thực hiện

nghĩa vụ này của người mua phải cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng, tức là thỏa

mãn các yếu tố xác định vi phạm cơ bản hợp đồng quy định tại Điều 25 Công ước

Viên [11, Điều 61].

Như đã phân tích ở chương 3, tòa án, trọng tài của một số quốc gia thành viên

Công ước đều thống nhất nhận định rằng, không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng như

không nhận hàng hoặc không thanh toán cho người bán đều thỏa mãn yếu tố cấu

thành vi phạm cơ bản hợp đồng quy định tại Điều 25 Công ước Viên. Khi giao kết

hợp đồng, người bán mong muốn nhận được tiền thanh toán, hàng giao được nhận,

vì thế những hành vi vi phạm này xem như đã gây ra cho người mua tổn hại, không

nhất thiết phải có tổn hại trong thực tế, đã tước đi đáng kể của người bán những gì

người bán có quyền kỳ vọng từ hợp đồng. Ví dụ, hành vi không thanh toán tiền hàng

của người mua trong các vụ vụ tranh chấp “Hat” [186], vụ tranh chấp “New Zealand

raw wool” [205], vụ “Styrene monomer” [200] hay người mua không nhận hàng trong

vụ Mung bean [192], vụ Horse bean [206]. Tương tự đối với người bán, đối với người

mua, tòa án, trọng tài cũng không chỉ xem xét hành vi vi phạm của người bán khi hết

thời hạn thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc Công ước mà tòa án, trọng tài còn

xem xét cả việc không thực hiện nghĩa vụ của người mua trong thời hạn mà người bán

đã gia hạn thêm để làm cơ sở xác định những gì người bán có quyền kỳ vọng từ hợp

đồng đã bị tước đi đáng kể, từ đó xác định vi phạm cơ bản hợp đồng và cho phép

Page 110: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

105

người bán áp dụng chế tài hủy hợp đồng. Tòa án, Trọng tài cũng xác định việc người

mua không thanh toán tiền hàng (không mở L/C), không nhận hàng theo quy định của

hợp đồng hoặc trong thời gian gia hạn thêm là vi phạm cơ bản hợp đồng trong nhiều

vụ tranh chấp như vụ Chrome plating production line equipment [187], vụ Steel coil

[197], vụ Chemicals [211], vụ Mono Ethylene glycol [207], vụ Polyester spinning

machine [190], vụ Alumina [194], vụ Peanut kernel [212], vụ Australian raw wool

[203], vụ Yam-dyed fabric [191], vụ Childrens jackets [198].

4.2.1.2. Hủy hợp đồng khi người bán giao hàng không phù hợp với hợp đồng

cấu thành vi phạm cơ bản

Theo điểm a khoản 1 Điều 35 Công ước Viên, người bán buộc phải đảm bảo

giao hàng đúng số lượng, phẩm chất và mô tả trong hợp đồng. Như vậy, việc cung cấp

hàng hóa không đúng số lượng, phẩm chất và mô tả trong hợp đồng đến một giới hạn

nào đó sẽ bị xem là vi phạm cơ bản hợp đồng và do đó người mua được quyền hủy

hợp đồng. Như vậy, vấn đề đặt ra là làm sao để xác định vi phạm đó đã đến mức là vi

phạm cơ bản hay chưa?

(i) Trường hợp hàng hóa không phù hợp về số lượng

Trước hết, vì đây là một vi phạm mang tính hình thức, sự không phù hợp được

chia thành hai dạng: giao hàng thiếu và giao hàng thừa. Đối với trường hợp giao hàng

thiếu, vi phạm này thường bị xem là giao hàng chậm hoặc không giao hàng tùy theo

tình huống cụ thể và thường không bị xem là một vi phạm cơ bản. Bên cạnh đó, Công

ước Viên đã quy định các biện pháp xử lý thay vì áp dụng ngay chế tài hủy hợp đồng

như buộc thực hiện đúng hợp đồng, bồi thường thiệt hại (nếu có). Đối với trường hợp

hàng hóa bị giao thừa, theo tinh thần Công ước Viên thì vi phạm này cũng không bị

xem là vi phạm cơ bản. Vì theo lẽ thường hàng hóa vẫn phù hợp với các tiêu chí khác

như khả năng bán lại được (thương mại), khả năng sử dụng được, do đó vẫn tồn tại

khả năng người mua bán lại phần hàng thừa cho bên thứ ba. Tuy nhiên, lý do này

không làm mất đi quyền của người mua được quy định tại khoản 2 Điều 51 Công ước

Viên: đó là người mua có thể chấp nhận hay từ chối số lượng hàng giao thừa. Trong

trường hợp người mua chấp nhận toàn bộ hoặc một phần số lượng hàng giao thừa,

người mua phải trả thêm số tiền tương đương với phần hàng đó. Dựa trên nguyên tắc

thiện chí quy định tại Điều 7 và nguyên tắc áp dụng tập quán, thói quen thương mại

theo Điều 9 Công ước Viên, phần hàng thừa có thể được người mua giữ lại và bảo

Page 111: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

106

quản một cách phù hợp trước khi hai bên có biện pháp xử lý khác. Nếu vì lý do đảm

bảo đóng gói hoặc chứng từ phù hợp, người mua không thể từ chối và không

muốn/không thể bảo quản phần hàng thừa, người mua có thể từ chối toàn bộ số hàng

được giao. Tuy nhiên, vì đây không phải là một vi phạm cơ bản, người mua không

được quyền hủy hợp đồng.

Thực tiễn, trong số hơn 392 vụ có áp dụng quy định về vi phạm cơ bản thì

không có trường hợp nào giao thiếu hàng hay giao thừa hàng cấu thành vi phạm cơ

bản và lẽ tất nhiên sẽ không bị áp dụng chế tài hủy hợp đồng mà chủ yếu là áp dụng

chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng. Như vậy, nói chung giao hàng nhầm số lượng

không bị xem là một vi phạm cơ bản và không dẫn đến hệ quả pháp lý là hợp đồng bị

hủy.

(ii) Trường hợp hàng hóa không phù hợp về phẩm chất và mô tả trong hợp

đồng

Điều 35 khoản 1 Công ước Viên quy định người mua có nghĩa vụ phải giao

hàng phù hợp với phẩm chất và mô tả trong hợp đồng. Trong trường hợp hàng được

giao bị khiếm khuyết, đây sẽ là cơ sở để tính toán liệu người bán có vi phạm cơ bản

dẫn đến người mua có quyền hủy hợp đồng hay không. Nói cách khác, sự không phù

hợp về phẩm chất và mô tả có nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng đến mức

cấu thành một vi phạm cơ bản không. Không phải bao giờ sự không phù hợp của hàng

hóa về phẩm chất và mô tả theo hợp đồng cũng cấu thành một vi phạm cơ bản. Nếu sự

không phù hợp chỉ diễn ra ở một phạm vi không đáng kể và người bán vẫn có khả

năng sửa chữa khiếm khuyết cũng như khắc phục hậu quả một cách hợp lý thì vi phạm

của người bán chưa đến mức bị xem là vi phạm cơ bản. Bên cạnh đó, cũng có những

trường hợp khiếm khuyết về phẩm chất và mô tả xuất hiện do quá trình vận chuyển,

bốc dỡ… hoặc là lỗi ẩn tỳ, việc xác định vi phạm cơ bản cũng trở nên khó khăn. Chính

vì vậy, không phải bao giờ người mua cũng có quyền hủy hợp đồng trong trường hợp

hàng hóa không phù hợp với phẩm chất và mô tả theo hợp đồng.

Nếu các bên không có thỏa thuận khác thì hàng hóa bị coi là không phù hợp với

hợp đồng: (i) không thích hợp cho mục đích sử dụng mà hàng hóa cùng loại vẫn

thường áp dụng; (ii) không thích hợp cho bất kỳ mục đích sử dụng cụ thể nào mà

người bán đã biết rõ ràng hoặc tự hiểu vào lúc giao kết hợp đồng; (iii) không phù hợp

với mẫu; (iv) không phù hợp về đóng gói [11, khoản 2 Điều 35]. Trong các trường hợp

Page 112: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

107

hàng giao không phù hợp này, đáng chú ý là hàng hóa được giao không phù hợp cho

mục đích sử dụng hay mục đích cụ thể của người mua. Như đã phân tích ở chương 3,

những căn cứ này là cơ sở để xác định mục đích mua hàng của người mua trong hoạt

động thương mại nói chung, mua bán hàng hóa nói riêng, tức là mua hàng để bán lại

hoặc để sử dụng cho mục đích nào đó như mục đích để sản xuất. Vì thế, xác định mục

đích mua hàng luôn gắn liền với việc xác định những gì người mua có quyền kỳ vọng

từ hợp đồng. Quan điểm của tòa án trong vụ “Café inventory” [232] đã khẳng định

thực tiễn vận dụng quy định nói trên, theo đó Tòa phúc thẩm Hamburg (Đức) đã cho

rằng: khi chất lượng hàng hóa được giao không phù hợp với hợp đồng thì sự không

phù hợp đó phải lớn đến mức hàng hóa trở nên vô dụng đối với người mua mới được

xác định là vi phạm cơ bản hợp đồng. Nếu hàng giao có chất lượng không phù hợp với

hợp đồng nhưng vẫn có thể sử dụng được hàng hóa đó, thậm chí chỉ sử dụng trong

giới hạn, sẽ không cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng. Bên cạnh đó, mặc dù chất

lượng hàng giao không phù hợp với hợp đồng đến mức hàng không thể sử dụng được

nhưng nếu người mua không thể chứng minh được hàng hóa không phù hợp về chất

lượng đến mức làm mất khả năng sử dụng của hàng hóa thì không phải là vi phạm cơ

bản hợp đồng.

Vì chế tài của hành vi giao hàng không phù hợp với hợp đồng cấu thành vi

phạm cơ bản là rất nặng nề - người mua có quyền tuyên bố hủy hợp đồng nên việc

xem xét giao hàng không phù hợp với hợp đồng cầu thành vi phạm cơ bản hợp đồng

có nên hay không cho phép hủy hợp đồng cũng được Công ước Viên đặc biệt nhấn

mạnh tại Điều 48. Nói cách khác, quyền tuyên bố hủy hợp đồng của người mua dựa

trên hàng hóa được giao không phù hợp cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng tại

điểm a khoản 1 Điều 49 bị giới hạn.Tuy nhiên, mặc dù cụm từ “với điều kiện tuân

thủ Điều 49” quy định trong khoản 1 Điều 48 Công ước Viên là không rõ ràng,

nhưng hầu hết các nhà bình luận Công ước viên đều nhận thấy sự phụ thuộc lẫn

nhau giữa khoản 1 Điều 48 và điểm a khoản 1 Điều 49, theo đó nếu người mua phát

hiện hàng giao không phù hợp thì cũng không thể bác bỏ quyền sửa chữa hàng hoá của

người bán chỉ bằng cách đơn giản là nhanh chóng thông báo huỷ hợp đồng. Nói cách

khác, miễn là hàng đã giao không đúng hợp đồng có thể được sửa chữa nhanh chóng

và không gây cho người mua trở ngại lớn nào thì vi phạm đó không được coi là vi

Page 113: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

108

phạm cơ bản, trừ khi và cho tới khi người bán không sửa chữa được hàng hóa dù đã có

cơ hội để khắc phục [123, tr.235].

Quyền khắc phục sự không phù hợp của hàng hóa của người bán thực chất là

việc bắt buộc người bán hoàn thành các nghĩa vụ. Mục đích của biện pháp này là đảm

bảo hợp đồng vẫn được thực hiện trên cơ sở mất đi một số chi phí cơ hội nhất định. Là

biện pháp mang tính phủ định chế tài hủy hợp đồng, nếu sự không phù hợp của hàng

hóa được giao còn có thể khắc phục được mà không khiến các bên phải chịu các phí

tổn hoặc chậm trễ không đáng có, người mua sẽ mất đi quyền áp dụng chế tài hủy hợp

đồng. Để khắc phục sự không phù hợp của hàng được giao người bán có thể sửa chữa

phần hàng hóa không phù hợp hoặc giao hàng thay thế.

Trong trường hợp phát hiện hàng hóa không phù hợp với hợp đồng, người bán

có thể chủ động đưa ra lời đề nghị khắc phục sự không phù hợp của hàng hóa cũng

như đề nghị người mua gia hạn thêm một thời gian hợp lý để người bán thực hiện các

biện pháp khắc phục. Bên cạnh đó, người mua cũng phải tạo cơ hội cho người bán

thực hiện việc khắc phục sự không phù hợp của hàng hóa cũng như gia hạn thêm thời

gian hợp lý để người bán hoàn thành nghĩa vụ của mình. Như vậy, nếu người bán

không khắc phục được sự không phù hợp của hàng được giao thì coi như vi phạm cơ

bản hợp đồng và người mua có quyền hủy hợp đồng. Điều này được thể hiện trong

thực tiễn vận dụng quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng bởi tòa án Tòa phúc thẩm

Koblenz (Đức) trong vụ Acrylic blankets [238], theo đó tòa án đã tuyên rằng không có

vi phạm cơ bản hợp đồng nếu có một đề nghị nghiêm túc khắc phục vi phạm của bên vi

phạm. Trong vụ tranh chấp này, người mua đã khởi kiện người bán đòi hủy hợp đồng

vì người bán giao hàng bị lỗi và 5 cuộn chăn acrylic bị thất lạc. Tòa án còn cho rằng,

khi xem xét vi phạm cơ bản hợp đồng không chỉ xem xét đến tính nghiêm trọng của sự

không phù hợp (khiếm khuyết) mà còn xem xét người bán có sẵn sàng khắc phục vi

phạm mà không gây ra những trở ngại bất hợp lý cho người mua hay không. Vì vậy,

trong trường hợp trên, sự không phù hợp nghiêm trọng của chất lượng hàng hóa không

cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng vì người bán đã đề nghị khắc phục vi phạm bằng

cách giao hàng bổ sung. Quan điểm này của Tòa phúc thẩm Koblenz (Đức) cũng

tương đồng với quan điểm của Tòa phúc thẩm Grenoble (Pháp) trong vụ Marques

Roque Joachim v. Manin Rivière [217] tranh chấp giữa người bán Pháp và người mua

Tây Ban Nha, theo đó người bán Pháp bán hàng mái che kho hàng đã qua sử dụng cho

Page 114: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

109

người mua Tây Ban Nha, giá bán hàng bao gồm chi phí tháo dỡ và chi phí vận chuyển.

Người mua đã từ chối thanh toán khoản tiền còn lại với lý do kim loại được tháo dỡ đã

bị lỗi. Tòa phúc thẩm Grenoble (Pháp) cho rằng phần kim loại lỗi đó chỉ liên quan tới

một phần của mái che và các phần kim loại lỗi có thể khắc phục được (sửa chữa được)

bởi người bán nên sự không phù hợp này không cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng.

Tương tự, trong vụ GMS modules [258]: Tòa án quận Zug (Thụy sĩ) cho rằng sẽ không

có sự không phù hợp nghiêm trọng nếu người bán có thể khắc phục sự không phù hợp

đó mà không gây ra bất kỳ thiệt hại thương mại bất hợp lý nào cho người mua. Quan

điểm này của tòa án cũng đã được khẳng định trong vụ Oven [256] (không có vi phạm

cơ bản nếu người bán sửa chữa khiếm khuyết một cách không chậm trễ) và vụ Shoes

[226] (thậm chí sự không phù hợp về chất lượng là nghiêm trọng vẫn không phải là vi

phạm cơ bản hợp đồng nếu người bán sẵn sàng thay thế hàng hóa mà không gây cho

người mua gánh nặng bất hợp lý nào).

Ngoài ra, để xác định vi phạm cơ bản hợp đồng làm căn cứ áp dụng chế tài hủy

hợp đồng tòa án còn dựa vào việc người bán đã cố gắng khắc phục vi phạm như thế

nào và cả trường hợp khắc phục không thành công. Ở vụ tranh chấp Furniture, người

bán Úc, nhà sản xuất đồ nội thất, đã thỏa thuận sản xuất ghế da cho người mua Đức.

Người mua Đức đã bán ghế da cho một trong số khách hàng của người mua Đức và

người này phát hiện đồ nội thất không phù hợp với hợp đồng. Người mua yêu cầu

người bán sửa chữa sự không phù hợp đó. Thậm chí sau khi ghế da đã được sửa chữa

người mua vẫn cho rằng ghế da không phù hợp với hợp đồng và tuyên bố hủy hợp

đồng. Tòa phúc thẩm Oldenburg (Đức) cho rằng mặc dù người bán đã nỗ lực khắc

phục sự không phù hợp của hàng hóa nhưng ghế da được sửa vẫn không phù hợp với

hợp đồng và điều này đã cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng cho phép người mua có

quyền tuyên bố hủy hợp đồng [219].

Bên cạnh đó, nếu người bán có khả năng và sẵn sàng khắc phục sự không phù

hợp của hàng hóa được giao nhưng người mua không tạo cơ hội cho người bán khắc

phục sự không phù hợp của hàng hóa thì người mua không có quyền áp dụng chế tài

hủy hợp đồng. Trên thực tế có rất nhiều tranh chấp mà người mua đã bị mất quyền hủy

hợp đồng do cơ quan giải quyết tranh chấp phát hiện ra người mua đã không tạo điều

kiện cho người bán áp dụng các biện pháp mang tính phục hồi, khắc phục vi phạm.

Chẳng hạn, trong vụ Cloth [241], tranh chấp về hợp đồng mua bán vải dệt giữa người

Page 115: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

110

mua Ý và người bán Đức. Sau khi hàng được giao, người mua đã khiếu nại vải không

đảm bảo tính phù hợp như đã thỏa thuận (vải không đúng cỡ để sản xuất váy và áo)

cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng. Tòa án của Đức cho rằng người mua không được

quyền hủy hợp đồng theo điểm a khoản 1 Điều 49 Công ước Viên vì người mua đã

không tạo điều kiện cho người bán thực hiện các quyền tại Điều 48 cũng như không

gia hạn thêm thời gian để người bán phục hồi tính phù hợp của hàng hóa theo Điều 47

Công ước.

Đối với hợp đồng giao hàng từng phần, nếu người bán chỉ giao một phần hàng

hóa hoặc nếu chỉ một phần hàng hóa đã giao phù hợp với hợp đồng thì người mua có

quyền hủy hợp đồng đối với phần giao thiếu hoặc phần hàng được giao không phù hợp

đó [11, khoản 1 Điều 51]. Người viết cho rằng, mặc dù điều khoản này nhắc lại quy

tắc đã được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 49 Công ước Viên, nhưng việc này là

cần thiết làm cho quy định rõ ràng hơn trong trường hợp người bán chỉ thực hiện

một phần nghĩa vụ hợp đồng. Thêm vào đó, từ “chỉ” sử dụng trong quy định này cho

thấy rằng toàn bộ hợp đồng sẽ không thể bị hủy trong trường hợp người bán không thể

giao một phần hàng hóa ngay cả khi được gia hạn thêm nếu việc giao hàng không

đầy đủ không cấu thành vi phạm cơ bản. Nếu người bán không giao hàng đầy đủ hoặc

giao hàng không phù hợp với hợp đồng cầu thành vi phạm cơ bản hợp đồng thì người

mua có quyền tuyên bố hủy toàn bộ hợp đồng.

4.2.1.3. Hủy hợp đồng khi vi phạm cơ bản dự đoán trước

Bên cạnh quy định quyền tuyên bố hủy hợp đồng của người bán hoặc của

người mua, Công ước Viên cũng quy định các trường hợp cả người bán và người

mua đều có quyền hủy hợp đồng, đó là vi phạm cơ bản hợp đồng dự đoán trước.

Quy tắc về “vi phạm hợp đồng dự đoán trước” có thể tóm tắt như sau: Trước khi đến

hạn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng theo thỏa thuận, nếu bên có quyền biết được

rằng nghĩa vụ sẽ không được thực hiện hoặc có căn cứ để nghi ngờ rằng nghĩa vụ sẽ

không thể thực hiện, thì có thể thực hiện ngay các quyền hoặc một số quyền mà thông

thường chỉ được dành cho các trường hợp nghĩa vụ đã không được thực hiện trên thực

tế [76, tr.230].

Công ước Viên áp dụng quy tắc “vi phạm dự đoán trước”, quy tắc rất phổ biến

đối với các quốc gia theo hệ thống luật common law. Khoản 1 Điều 72 Công ước cho

phép một bên hủy hợp đồng khi dự liệu trước được khả năng vi phạm cơ bản hợp đồng

Page 116: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

111

của bên kia với nội dung: Nếu trước ngày quy định cho việc thực hiện hợp đồng mà

một bên rõ ràng sẽ vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng thì bên kia có thể tuyên bố huỷ

hợp đồng. Tương tự Công ước Viên, PICC cũng quy định: Một bên có căn cứ để hủy

hợp đồng nếu, trước thời hạn, rõ ràng sẽ có việc không thực hiện chủ yếu từ phía bên

kia [10, Điều 7.3.3].

Bản bình luận về Công ước Viên của Hội đồng thư ký UNCITRAL đã chỉ ra

rằng, vi phạm cơ bản hợp đồng dự đoán trước là rõ ràng có thể do nguyên nhân những

ngôn ngữ và hành động của một bên hình thành một lời từ chối chấp nhận hợp đồng

hoặc do một thực tế khách quan, chẳng hạn việc nhà máy của người bán bị phá hủy do

đám cháy, hay việc công bố lệnh cấm vận, hoặc việc kiểm soát tiền tệ khiến cho hợp

đồng không thể được thực hiện trong tương lai [162]. Thêm vào đó, việc một bên

không thể đưa ra những đảm bảo đầy đủ rằng anh ta sẽ thực hiện hợp đồng khi được

yêu cầu một cách đúng đắn cũng khiến cho việc anh ta sẽ gây ra vi phạm cơ bản trở

nên rõ ràng [162]. Rõ ràng là, một “đảm bảo đầy đủ” được hình thành tùy thuộc vào

các tình tiết cụ thể, bao gồm vị thế và uy tín của người cam kết, việc thực hiện các

nghĩa vụ trước đó của hợp đồng, và bản chất của sự kiện khiến cho việc thực hiện hợp

đồng của một bên trở nên không chắc chắn. Nói chung, để một đảm bảo là đầy đủ

phải có các chứng cứ hợp lý thể hiện rằng một bên sẽ thực hiện hợp đồng hoặc một

đảm bảo rằng bên đó sẽ đền bù cho bên kia mọi thiệt hại phát sinh khi bên kia thực

hiện các nghĩa vụ của mình. Trong thực tế, có rất ít trường hợp một lời tuyên bố ý

định và khả năng thực hiện hợp đồng hình thành một “đảm bảo đầy đủ”. Một đảm bảo

đầy đủ phải bao gồm những bằng chứng xác thực hơn, ví dụ như một điều khoản

thanh toán khác, hoặc một bảo lãnh thanh toán của một ngân hàng uy tín hay bên thứ

ba. Tòa án trong vụ Shoes [222], theo đó Người mua Đức đặt mua của người bán Ý

140 đôi giày mùa đông, đã cho rằng: Sau khi sản xuất giày theo đơn đặt hàng, người

bán yêu cầu người mua đảm bảo thanh toán hàng hóa vì người mua vẫn còn những hóa

đơn khác chưa thanh toán cho người bán. Tuy nhiên, người mua không thanh toán

cũng như không cung cấp cho người bán đảm bảo thanh toán. Vì vậy, người bán đã

tuyên bố hủy hợp đồng và bán lại 140 đôi giày mùa đông cho nhà bán lẻ khác. Tòa án

cho rằng việc người mua không cung cấp đảm bảo thanh toán đơn hàng mới cho

người bán, trong khi chưa thanh toán các đơn hàng cũ là quá rõ ràng cho một sự vi

Page 117: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

112

phạm cơ bản hợp đồng. Vì vậy, người bán có quyền hủy bỏ hợp đồng theo Điều 72

Công ước Viên.

Hơn nữa, trước khi đến hạn thực hiện hợp đồng nếu người mua không mở Thư

tín dụng phù hợp với hợp đồng [189] hoặc không cung cấp đảm bảo thực hiện hợp

đồng [265] thì hiển nhiên rằng người mua sẽ gây ra vi phạm cơ bản hợp đồng nên

người bán có quyền tuyên bố hủy hợp đồng. Bên cạnh đó, trước khi đến hạn thực hiện

hợp đồng mà người bán từ chối cam kết ngày giao hàng cụ thể và khuyên người mua

mua hàng từ nguồn cung cấp khác [195], tuyên bố không thể tìm được hàng và khả

năng tìm được hàng thay thế là rất thấp [197], giao bản vẽ chưa hoàn thiện để sản xuất

hàng hóa và không đảm bảo một cách hợp lý sẽ hoàn thiện bản vẽ đó [246] thì người

mua có quyền tuyên bố hủy hợp đồng.

Khoản 2 Điều 72 Công ước Viên tưởng chừng có mục đích giới hạn quyền hủy

hợp đồng trong các trường hợp mà người cam kết không thể đưa ra đảm bảo đầy đủ

sau khi được thông báo hợp lý bởi bên kia. Tuy nhiên, những phân tích ở trên về

khoản 1 Điều 72 đã cho thấy rằng điều khoản này còn mục đích khác là đưa ra một

dẫn chứng để thử nghiệm tính rõ ràng của việc một bên sẽ vi phạm cơ bản hợp đồng

dự đoán trước.

Trong trường hợp hợp đồng giao hàng từng phần, nếu một bên không thực hiện

một nghĩa vụ đối với một lần giao hàng làm cho bên kia có lý do xác đáng để cho

rằng sẽ có một sự vi phạm cơ bản hợp đồng với các lần giao hàng trong tương lai thì

bên kia có thể tuyên bố hủy hợp đồng đối với các lần giao hàng trong tương lai, với

điều kiện phải làm việc đó trong một thời hạn hợp lý [11, khoản 1 Điều 73]. Mặc dù

khoản 3 Điều 73 Công ước Viên không có ý nào nhắc đến vi phạm cơ bản nhưng

trong mối quan hệ với khoản 1 Điều 73 và khoản 2 Điều 73, có thể rút ra rằng, một

vi phạm cơ bản xảy ra trong bất kỳ lần giao hàng nào, hay được dự đoán sẽ xảy ra

trong tương lai sẽ cho bên bị vi phạm quyền hủy hợp đồng chuyến hàng đó, những

chuyến hàng tương lai và những chuyến hàng quá khứ, hay thậm chí toàn bộ các lô

hàng theo hợp đồng nếu như “có sự phụ thuộc lẫn nhau, các lô hàng này không thể sử

dụng được cho mục đích do hai bên đã dự tính vào lúc giao kết hợp đồng” [11, khoản

3 Điều 73]. Chẳng hạn, vụ Doolim Corp. v. R Doll, LLC, et al. [265]: Từ tháng 4 đến

tháng 7/2007, người bán Hàn Quốc và người mua Hoa Kỳ đã ký kết một loạt hợp

đồng, theo đó người bán sản xuất và giao gần 500,000 bộ quần áo phụ nữ cho người

Page 118: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

113

mua ở New York. Căn cứ các điều khoản của đơn hàng, người mua có nghĩa vụ thanh

toán tiền hàng cho người bán trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hàng. Vào tháng

7 và 8/2007, người bán đã giao một phần đơn hàng cho người mua, người mua đã nhận

hàng nhưng không thanh toán tiền hàng cho người bán. Trong hai tháng 10 và 11 sau

đó, sau khi người bán nhận được bảo đảm của người mua sẽ thanh toán tiền hàng đã

giao, người bán giao tiếp hàng cho người mua. Sau đó, người bán đồng ý cho bán hạ

giá hàng trong 5 chuyến nhưng người mua không thanh toán theo lịch trình giao hàng,

người bán đã ngừng các giao hàng tiếp và khởi kiện người mua. Tòa án New York cho

rằng người bán được quyền hủy hợp đồng và từ chối giao hàng tháng 11 và số quần áo

còn lại bởi vì người mua đã liên tục không thanh toán tiền hàng cho người bán. Điều

này chứng tỏ rằng người mua không thể hoặc không có khả năng thanh toán tiền hàng

đã thỏa thuận. Bên cạnh đó, cuối tháng 1/2008, người mua không thanh toán tổng số

tiền $530,000 đã hết hạn thanh toán vào 14 và 28/12/2007 và người mua cũng không

đảm bảo được rằng anh ta có thể thanh toán cho người bán bất kỳ khoản thanh toán

nào cho số hàng đã nhận trước đó. Như vậy, rõ ràng người bán có cơ sở xác đáng để

tin rằng người mua sẽ tiếp tục vi phạm cơ bản hợp đồng cho các lần giao hàng vào

tháng 11 và số hàng còn lại. Vì vậy, người bán có quyền tuyên bố hủy hợp đồng theo

khoản 2 Điều 73 Công ước Viên.

Quy định tại khoản 1 Điều 72 và khoản 2 Điều 73 Công ước Viên đều có thể áp

dụng để tuyên bố hủy hợp đồng đối với vi phạm cơ bản dự đoán trước. Tuy nhiên, sự

khác nhau ở 2 điều khoản này là ở chỗ: khoản 1 Điều 72 áp dụng khi một bên thấy “rõ

ràng” rằng bên kia sẽ gây ra vi phạm cơ bản dự đoán trước đối với hợp đồng giao hàng

1 lần, trong khi đó khoản 2 Điều 73 áp dụng khi một bên “có lý do xác đáng” để cho

rằng có sự vi phạm cơ bản hợp đồng đối với hợp đồng giao hàng từng phần (lần giao

hàng trong tương lai). Chẳng hạn, vụ Downs Investments v. Perwaja Steel [183]:

Người bán Úc ký hợp đồng với người mua Malaysia mua phế liệu. Theo hợp đồng,

trước khi giao hàng, người mua phải mở L/C không hủy ngang cho người bán hưởng.

Ngay trươc khi mở L/C cho người bán hưởng, người mua thay đổi cơ cấu tổ chức và

quản lý. Theo mô hình quản lý mới, người mua có nghĩa vụ xin phép Hội đồng quản

trị trước khi mở L/C. Tuy nhiên, Hội đồng quản trị không thể đưa ra bất cứ chỉ đạo nào

trong thời gian ngắn nên người mua đã không mở được L/C như yêu cầu của người

bán. Vì thế, người bán đã tuyên bố hủy hợp đồng. Tòa án tối cao Queensland cho rằng,

Page 119: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

114

việc người mua không mở L/C là vi pham cơ bản hợp đồng, vì vậy người bán có quyền

tuyên bố hủy hợp đồng theo Điều 72 Công ước Viên.

Đối với hợp đồng giao hàng từng phần, nếu một bên mất đi, một cách hợp pháp,

niềm tin vào việc thực hiện hợp đồng trong tương lai của bên kia và không có cơ sở để

chờ đợi bên kia tiếp tục thực hiện hợp đồng, tòa án thường cho rằng có vi phạm cơ bản

hợp đồng trong những trường hợp đó. Chẳng hạn, vụ BRI Production "Bonaventure"

v. Pan African Export [215]: Người mua Hoa Kỳ ký hợp đồng với người bán (nhà sản

xuất Pháp) để sản xuất quần jean “Bonaventure” và tuyên bố việc bán lại quần jean chỉ

được tiến hành ở Nam Mỹ hoặc châu Phi. Trong quá trình đàm phán hợp đồng và thực

hiện hợp đồng, người bán nhiều lần yêu cầu người mua chứng minh điểm đến của

hàng bán. Thực tế, chuyến hàng thứ hai, người mua đã bán lại số quần jean cho cửa

hàng thời trang ở Madrid (Tây Ban Nha) và sau đó người mua từ chối tiết lộ địa điểm

giao hàng chính xác của người mua cũng như cung cấp cho luật sư của người bán

thông tin sai lệch. Tòa phúc thẩm Grenoble (Pháp) cho rằng các bên hiểu rõ ràng việc

bán lại chỉ được phép thực hiện ở Nam Mỹ hoặc châu Phi nên việc người mua bán lại

hàng ở Tây Ban Nha đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới những gì người bán kỳ vọng

từ hợp đồng và làm hệ thống phân phối của người bán bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Tòa phúc thẩm Grenoble đã dẫn chiếu tới khoản 2 Điều 72 Công ước Viên và xử rằng

việc người mua vi phạm cơ bản hợp đồng nói trên đã cho người bán đủ lý do để kết

luận rằng người mua cũng sẽ vi phạm cơ bản hợp đồng những lần giao hàng tiếp sau

[215]. Quan điểm tương tự cũng được trọng tài đưa ra trong vụ Soinco v. NKAP [259]:

Người bán Nga ký hợp đồng bán nhôm cho người mua (nhóm công ty đúc nhôm ở

Argentina và Hungary). Tháng 12/1994, người bán được tư nhân hóa và chủ sở hữu

mới của người bán đã ngừng giao hàng nhôm nguyên liệu cho người mua từ 1/1995 trở

đi trong khi chờ đợi cuộc điều tra nội bộ. Tuy nhiên, sau đó hàng hóa đã không bao giờ

được giao cho người mua. Người mua đã khởi kiện người bán ra trọng tài ở Zürich.

Hội đồng trọng tài cho rằng, rõ ràng việc người bán đã cố ý ngừng giao hàng cho

người mua là vi phạm cơ bản hợp đồng và đây là vi phạm đối với hợp đồng giao hàng

từng phần, vì vậy căn cứ Điều 49, 72 và 73 Công ước Viên người mua có quyền tuyên

bố hủy hợp đồng.

Thực tiễn vận dụng quy định vi phạm cơ bản hợp đồng cho thấy, tòa án, trọng

tài chấp nhận tuyên bố hủy hợp đồng của người mua trong thời gian hợp lý do có lý do

Page 120: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

115

xác đáng để tin rằng có vi phạm cơ bản hợp đồng đối với các lần giao hàng trong

tương lai trong các trường hợp sau: nếu người bán không giao hàng dù người mua đã

thanh toán tiền hàng chuyến đầu tiên [260]; người bán không giao chuyến hàng đầu

tiên [261]; người bán từ chối giao hàng tiếp vì giá mặt hàng cherry trên thị trường tăng

nhanh [244]; người bán giao chậm 3 chuyến hàng đã phá vỡ việc sản xuất của người

mua [251]. Đối với người bán, người bán có quyền tuyên bố hủy hợp đồng trong thời

gian hợp lý đối với lần giao hàng trong tương lai nếu: việc không mở thư tín dụng của

người mua làm cho người bán có lý do xác đáng để kết luận người mua sẽ không thanh

toán tiền hàng [246]; người mua tuyên bố không chấp nhận các lần giao hàng tương lai

trong thời hạn hợp đồng mặc dù người mua có nghĩa vụ này [234].

Tương tự Công ước Viên, PICC và PECL cũng áp dụng quy tắc “vi phạm dự

đoán trước”, cụ thể: Điều 7.3.3 của PICC quy định “Nếu trước ngày thực hiện nghĩa

vụ của một bên mà có chứng cứ rõ ràng là bên kia sẽ không thực hiện cơ bản thì bên

có chứng chứ có thể chấm dứt hợp đồng”; Điều 8:105 của PECL quy định “Một bên

có lý do xác đáng tin rằng bên kia sẽ không thực hiện cơ bản hợp đồng có thể yêu cầu

bên kia đảm bảo thực hiện hợp đồng hợp lý và trong thời gian đó có thể từ bỏ thực

hiện nghĩa vụ của mình cho đến khi niềm tin đó còn tiếp tục, (2) Nếu bên kia không

cung cấp đảm bảo thực hiện hợp đồng trong thời hạn hợp lý, bên yêu cầu có thể chấm

dứt hợp đồng nếu vẫn tin rằng bên kia sẽ không thực hiện cơ bản nghĩa vụ hợp

đồng…”.

Nói chung, một bên chỉ áp dụng các chế tài theo Công ước khi bên kia có hành

vi vi phạm, chẳng hạn khi người bán không giao hàng vào thời gian và địa điểm đã

thoả thuận hoặc giao hàng không phù hợp với hợp đồng. Tuy nhiên, nếu trước ngày

quy định cho việc thực hiện hợp đồng, một bên vì những lý do khác mà thấy rõ rằng

bên kia sẽ vi phạm cơ bản hợp đồng thì khoản 1 Điều 72 và khoản 2 Điều 73 Công

ước Viên cho phép một bên được tuyên bố huỷ hợp đồng, từ đó giải phóng cả hai bên

khỏi việc thực hiện nghĩa vụ của họ.

Khi hợp đồng bị hủy, theo Công ước Viên, làm phát sinh những hậu quả pháp

lý rất nặng nề không chỉ đối với chính bản hợp đồng đã được các bên thỏa thuận, ký

kết và thực hiện mà còn đối với quyền và nghĩa vụ của các bên, cụ thể:

- Chấm dứt hiệu lực của hợp đồng có hiệu lực hồi tố

Khi hợp đồng bị hủy, hợp đồng sẽ không còn hiệu lực đối với các bên, đồng

nghĩa với việc các bên chấm dứt thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhau, giải phóng

Page 121: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

116

các bên khỏi việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng hiện tại và trong tương lai. Tức là,

người bán (người mua) hủy hợp đồng thì người mua được giải phỏng khỏi việc thực

hiện nghĩa vụ thanh toán và nhận hàng, đồng thời giải phóng người bán khỏi nghĩa vụ

giao hàng, nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu về hàng hóa và nghĩa vụ giao chứng từ

liên quan đến hàng hóa cho người mua.

Như vậy, mặc dù hậu quả pháp lý chính của việc hủy hợp đồng là giải phòng

các bên khỏi việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng hiện tại và trong tương lai nhưng điều

này không có nghĩa rằng tất cả các điều khoản của hợp đồng cũng tự động hết hiệu

lực. Công ước Viên quy định “Việc hủy hợp đồng không ảnh hưởng đến việc giải

quyết các tranh chấp hay đến các quyền và nghĩa vụ của hai bên trong trường hợp hợp

đồng bị hủy”. Mục đích của quy định này là để ngăn chặn việc chấm dứt hoàn toàn

hiệu lực hợp đồng. Các điều khoản giải quyết tranh chấp không chỉ giúp các bên bảo

đảm quyền và lợi ích của mình mà còn là công cụ bổ trợ cho việc hủy hợp đồng. Điều

này đặc biệt quan trọng bởi xung đột sẽ càng trầm trọng thêm nếu không có được một

phương án dự phòng để giải quyết thỏa đáng, đảm bảo được sự tin tưởng của các bên

vào các biện pháp, điều luật áp dụng.

- Phát sinh nghĩa vụ hoàn lại những gì đã cung cấp hoặc đã thanh toán

Sự hủy hợp đồng có hiệu lực hồi tố và đặt các bên trở lại tình trạng trước khi ký

kết hợp đồng, những nghĩa vụ chưa thi hành thì sẽ bị hủy và những nghĩa vụ đã thi

hành thì sẽ được thu hồi lại. Khoản 2 Điều 82 Công ước Viên quy định rằng, khi hợp

đồng bị hủy, bên nào đã thực hiện một phần hoặc toàn phần hợp đồng có thể đòi bên

kia hoàn lại “những gì họ đã cung cấp hay đã thanh toán” theo hợp đồng (khi thực hiện

hợp đồng). Chính hợp đồng bị hủy đã làm thay đổi quan hệ hợp đồng giữa người bán

và người mua sang quan hệ hoàn lại.

Đối với người bán, nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng người mua đã thanh

toán toàn bộ hoặc một phần giá trị hợp đồng cho người bán thì khi hợp đồng bị hủy

người mua có quyền yêu cầu người bán hoàn lại số tiền mà người mua đã thanh toán

cho người bán theo hợp đồng. Đối với người mua, nếu người bán đã giao một phần

hoặc toàn bộ hàng hóa theo hợp đồng, khi hợp đồng bị hủy, người bán có quyền yêu

cầu người mua hoàn trả lại một phần hoặc toàn bộ hàng hóa đã giao trong tình trạng

“về thực chất giống như tình trạng khi họ nhận hàng đó” (khoản 1 Điều 82 Công ước

Viên). Điều này có nghĩa là nghĩa vụ hoàn lại thuộc về người mua theo quy định tại

Page 122: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

117

khoản 2 Điều 81 Công ước Viên không nhằm đặt người mua vào vị trí của mình nếu

hợp đồng được thực hiện đầy đủ hoặc hợp đồng không được ký kết mà thay vào đó là

yêu cầu hoàn trả hàng hóa thực tế đã giao, thậm chí số hàng hóa đó bị tổn thất trong

quá trình trả lại.

Người mua đồng thời cũng phải hoàn trả cho người bán “số tiền tương đương

với mọi lợi nhuận” mà người mua đã được hưởng từ hàng hóa hoặc một phần hàng

hóa. Tương tự, người bán phải hoàn lại tiền hàng cho người mua có nghĩa vụ theo

khoản 1 Điều 84 Công ước Viên, trả tiền lãi trên tổng số tiền hàng đó đến khi số tiền

được trả lại. Tuy nhiên, người bán không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại với

những tổn thất xảy ra khi người bán từ chối hoàn lại tiền cho người mua. Như vậy,

theo khoản 2 Điều 81 Công ước Viên thì hủy hợp đồng chính là điều kiện tiên quyết để

yêu cầu hoàn lại.

Về thời điểm thực hiện nghĩa vụ hoàn lại, Công ước Viên không quy định việc

hoàn lại của người bán và người mua phải được thực hiện khi nào. Thay vào đó, Công

ước Viên chỉ quy định nếu cả hai bên đều phải hoàn lại thì phải thực hiện nghĩa vụ

hoàn lại cùng một lúc (khoản 2 Điều 81). Tuy nhiên, Công ước Viên không quy định

cụ thể một số vấn đề như địa điểm thực hiện hoàn lại, chi phí hoàn lại.

Từ những phân tích trên có thể rút ra một số nhận xét sau:

(1) Hệ quả pháp lý nặng nề nhất mà người bán và người mua phải gánh chịu khi

có vi phạm cơ bản hợp đồng là hủy hợp đồng. Các quy định liên quan đến vấn đề hủy

hợp đồng do vi phạm cơ bản hợp đồng được đánh giá là tương đối bao quát, đầy đủ và

hợp lý [158, tr.272]. Có đến trên dưới 50 quy định liên quan đến vấn đề này (chiếm

đến 1 nửa so với tổng số quy định của Công ước Viên).

Đối với những vi phạm cơ bản hợp đồng như không giao hàng, không giao

chứng từ liên quan đến hàng hóa, không thanh toán tiền hàng, không nhận hàng trong

thời hạn hợp đồng hoặc trong thời hạn được gia hạn thêm thì đều dẫn đến hệ quả người

mua có quyền tuyên bố hủy hợp đồng. Tuy nhiên, quá trình xem xét để quyết định liệu

người mua có quyền hủy hợp đồng hay không, tòa án, trọng tài không chỉ đơn thuần

xem xét các yếu tố cấu thành vi phạm cơ bản quy định tại Điều 25 mà còn xem xét sự

thiện chí, hợp tác của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng, đặc biệt là việc gia

hạn thời hạn thực hiện hợp đồng. Không thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng nói trên

Page 123: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

118

trong thời hạn gia hạn thêm đều bị tòa án, trọng tài xem như cấu thành vi phạm cơ bản

hợp đồng và tất yếu dẫn tới hệ quả hợp đồng bị hủy.

Đối với thời gian giao hàng, thời gian giao hàng không phải là yếu tố cơ bản

của hợp đồng, vì vậy, giao hàng không đúng thời gian không phải lúc nào cũng cấu

thành vi phạm cơ bản hợp đồng. Thực tiễn vận dụng quy định vi phạm cơ bản hợp

đồng cho thấy, hành vi vi phạm hợp đồng của người bán (giao hàng không đúng thời

gian) sẽ bị coi là vi phạm cơ bản nếu nó thỏa mãn hai yếu tố: (i) Trong hợp đồng có ấn

định một thời hạn giao hàng cụ thể và người bán đã vi phạm thời hạn giao hàng cụ thể

đó; (ii) Việc vi phạm thời hạn giao hàng cụ thể đã được ấn định trong hợp đồng gây

tổn hại đến lợi ích của người mua. Điều này là hợp lý bởi lẽ cả 2 yếu tố này cũng thỏa

mãn quy định tại Điều 25 Công ước Viên.

Đối với trường hợp hàng hóa không phù hợp với hợp đồng cấu thành vi phạm

cơ bản, mặc dù hủy hợp đồng trong trường hợp thể hiện quyền của người mua khi

người bán gây ra vi phạm, Công ước Viên đã rất cân đối giữa quyền và nghĩa vụ của

hai bên. Theo đó, để áp dụng được chế tài hủy hợp đồng, người mua cần phải thực

hiện những nghĩa vụ nhất định: chứng minh được vi phạm của người bán đủ nghiêm

trọng để bị coi là vi phạm cơ bản; chứng minh mọi biện pháp khôi phục khác đều

không thể thực hiện được hoặc đã thực hiện nhưng không thành công. Bên cạnh đó,

người bán lại được áp dụng quyền khắc phục sự không phù phù hợp của hàng hóa.

(2) Công ước Viên đã thể hiện rất rõ quan điểm xem hủy hợp đồng là biện pháp

cuối cùng mà các bên được áp dụng trong trường hợp có vi phạm cơ bản hợp đồng.

Điều này chứng minh qua việc Công ước Viên đã đưa ra giới hạn đối với quyền hủy

hợp đồng của người mua trong trường hợp hàng hóa không phù hợp với hợp đồng, đó

là khả năng khắc phục của người bán khi hàng hóa được giao không phù hợp với hợp

đồng

Rõ ràng, thực tiễn giải quyết các vụ tranh chấp cho thấy tòa án đã “vượt” ra

ngoài quy định tại Điều 25 bằng cách vận dụng quy định tại Điều 36 và Điều 48 của

Công ước khi không coi vi phạm giao hàng không phù hợp với hợp đồng của người

bán là vi phạm cơ bản khi người bán sẵn sàng, có khả năng khắc phục được sự không

phù hợp đó mà không gây ra bất kỳ sự bất tiện bất hợp lý nào cho người mua. Đây có

thể coi là “trường hợp miễn trừ” cho người bán nếu có vi phạm hợp đồng thỏa mãn

quy định tại Điều 25 nhưng không bị coi là vi phạm cơ bản. Tòa án đã có sự vận dụng

Page 124: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

119

kết hợp cả Điều 25 với Điều 48, Điều 49 để xác định vi phạm cơ bản hợp đồng để từ

đó có căn cứ cho phép áp dụng chế tài hủy hợp đồng.

Nhiều học giả cho rằng không nên xem xét vấn đề về đề nghị khắc phục hậu

quả do hành vi vi phạm với ý nghĩa là một tiêu chí xác định vi phạm cơ bản hợp đồng

[107, tr.102; 128, tr.319; 145, tr.18]. Việc xem xét đề nghị khắc phục hành vi vi phạm

và khả năng khắc phục khiếm khuyết do hành vi vi phạm gây nên trái với quy định tại

khoản 1 Điều 48 Công ước Viên theo đó quyền khắc phục hành vi vi phạm của người

bán phải tuân thủ Điều 49. Rõ ràng, quyền hủy hợp đồng của người mua luôn chiếm

ưu thế so với quyền khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm của người bán, vì vậy

không thể căn cứ vào đề nghị khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm để xác định vi

phạm cơ bản hợp đồng. Bên cạnh đó, việc căn cứ vào đề nghị khắc phục hậu quả để

xác định vi phạm cơ bản là không phù hợp với Khoản 2 Điều 46 Công ước Viên, theo

đó người mua có thể yêu cầu giao hàng thay thế nếu hàng hóa không phù hợp với hợp

đồng cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng. Quyền yêu cầu hàng thay thế của người mua

sẽ bị hạn chế trong những trường hợp không thể khắc phục được hậu quả, không thể

sửa chữa được.

Người viết cho rằng khoản 1 Điều 48 Công ước Viên không làm rõ mối quan hệ

chính xác giữa quyền khắc phục hậu quả do vi phạm hợp đồng của người bán và quyền

hủy hợp đồng của người mua. Vì thế, không thể trả lời một cách chắc chắn rằng hủy

hợp đồng hay khắc phục hậu quả vi phạm sẽ chiếm ưu thế. Bên cạnh đó, mục đích của

khoản 1 Điều 48 Công ước Viên sẽ bị triệt tiêu nếu người mua được quyền hủy hợp

đồng trước khi trao cho người bán cơ hội khắc phục khiếm khuyết do hành vi vi phạm

gây nên. Chính vì vậy, vi phạm hợp đồng không bị coi là vi phạm cơ bản miễn là thỏa

mãn yêu cầu quy định tại khoản 1 Điều 48 Công ước Viên, tức là việc khắc phục vi

phạm được tiến hành trong khoảng thời gian hợp lý, không gây cho bên bị vi phạm

những trở ngại phi lý hay sự không chắc chắn về việc người bán hoàn trả các phí tổn

mà người mua gánh chịu. Do đó, nếu người bán từ chối hoặc không khắc phục sự

không phù hợp của hàng hóa đã giao trong thời gian hợp lý thì bị coi là vi phạm cơ bản

hợp đồng.

Về điểm này thì Công ước Viên không giống với PICC. Mối quan hệ giữa

quyền khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm của người bán với quyền chấm dứt hợp

đồng của người mua được quy định trong PICC rất rõ ràng. Quyền chấm dứt hợp đồng

Page 125: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

120

của người mua sẽ bị đình chỉ thực hiện nếu đề nghị khắc phục hậu quả hành vi vi

phạm của người mua là thích hợp và người mua không có “lợi ích chính đáng” khi từ

chối đề nghị khắc phục của người bán. Hơn nữa, quyền khắc phục hậu quả hành vi vi

phạm của người bán không thể bị ngăn cản chỉ bằng thông báo chấm dứt hợp đồng.

Nói cách khác, người mua không thể áp dụng quyền chấm dứt hợp đồng của mình vì

mục đích từ chối cho người bán cơ hội khắc phục hậu quả hành vi vi phạm. Vì thế,

theo PICC, khả năng khắc phục hậu quả hành vi vi phạm là một trong những yếu tố

liên quan khi xác định có hay không có hành vi không thực hiện cơ bản hợp đồng [81,

tr.1157-1185; 130].

(3) Công ước Viên cũng như phần lớn pháp luật của các quốc gia trên thế giới

đều chấp nhận quy tắc về “vi phạm dự đoán trước” [76, tr.229]. Công ước Viên đã lựa

chọn giải pháp cho phép một bên hủy hợp đồng trong trường hợp vi phạm hợp đồng

trước thời hạn, biểu hiện ở việc thấy rõ ràng “một bên không thực hiện nghĩa vụ hợp

đồng cấu thành vi phạm cơ bản” (đối với hợp đồng giao hàng 1 lần) hoặc có lý do xác

đáng để cho rằng “một bên sẽ vi phạm cơ bản đối với đối với lần giao hàng trong

tương lai” (đối với hợp đồng giao hàng từng phần). Có thể thấy ngay lợi ích của giải

pháp này thể hiện ở chỗ: bên có quyền được giải phóng khỏi hợp đồng và có thể đi tìm

những giải pháp thay thế chứ không cần phải đợi cho đến khi bên có nghĩa vụ không

thực hiện hợp đồng xảy ra trên thực tế.

Với hậu quả pháp lý nặng nề do việc áp dụng chế tài hủy hợp đồng mang lại,

Công ước Viên cũng thể hiện sự “thận trọng” bằng việc chỉ quy định điều kiện để hủy

hợp đồng trước thời hạn, đó là: cần phải có dấu hiệu “rõ ràng” là bên có nghĩa vụ sẽ vi

phạm cơ bản hợp đồng (khoản 1 Điều 72), trong khi đó để có thể viện dẫn quyền tạm

ngừng thực hiện hợp đồng trước thời hạn, chỉ cần “có dấu hiệu” cho thấy bên kia sẽ

không thực hiện hợp đồng. Đối với những hợp đồng giao hàng từng phần, bên bị vi

phạm muốn tuyên bố hủy hợp đồng đối với toàn bộ các lần giao hàng sau đó, thì vi

phạm đã xảy ra phải khiến cho bên bị vi phạm “có cơ sở” để nghĩ rằng sự vi phạm cơ

bản sẽ xảy ra với những nghĩa vụ phải thực hiện trong tương lai (khoản 2 Điều 73).

Thực tiễn vận dụng quy định vi phạm cơ bản hợp đồng để áp dụng chế tài hủy

hợp đồng do vi phạm hợp đồng dự đoán trước cho thấy, các trường hợp bị tòa án,

trọng tài chấp nhận yêu cầu tuyên bố hủy hợp đồng là khi người bán hoặc người mua

không thực hiện nghĩa vụ của mình (không giao hàng, không thanh toán) nhưng không

Page 126: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

121

cung cấp cho bên kia được những đảm bảo rằng sẽ thực hiện hợp đồng [158, tr.253].

Đây là những dấu hiệu “rõ ràng” cho sự vi phạm cơ bản hợp đồng trong tương lai.

Tòa án, trọng tài khi áp dụng Điều 72 và Điều 73 để công nhận quyền tuyên bố

hủy bỏ hợp đồng của người bán hoặc người mua đã không xem xét đến yếu tố thiệt hại

đáng kể mà là dựa vào nguy cơ ảnh hưởng tới mong muốn của bên bị vi phạm trên cơ

sở hợp đồng. Với những vi phạm rõ ràng kèm theo đó là không có sự đảm bảo hợp

đồng được thực hiện thì tòa án, trọng tài đều thừa nhận quyền hủy hợp đồng của người

bán hoặc người mua.

4.2.2. Yêu cầu giao hàng thay thế

Mục đích của các bên khi ký kết hợp đồng là muốn các quyền và nghĩa vụ phát

sinh từ hợp đồng được thực hiện đúng, đầy đủ và thiện chí, mang lại lợi ích kinh tế cho

mỗi bên. Đây chính là cơ sở thực tiễn của biện pháp buộc thực hiện đúng hợp đồng,

một biện pháp được áp dụng phổ biến khi có hành vi vi phạm hợp đồng.

Khoản 2 Điều 46 Công ước Viên cho phép người mua yêu cầu người bán giao

hàng thay thế khi hàng hóa đã được giao không phù hợp với hợp đồng cấu thành một

vi phạm cơ bản hợp đồng. Cụ thể, khoản 2 Điều 46 Công ước Viên quy định: “Nếu

hàng hóa không phù hợp với hợp đồng thì người mua có thể yêu cầu người bán phải

giao hàng thay thế nếu sự không phù hợp đó cấu thành một vi phạm cơ bản hợp

đồng và yêu cầu về việc thay thế hàng hoá phải được đưa ra cùng với việc thông báo

theo Điều 39 hoặc trong một thời hạn hợp lí sau đó”.

Về mặt bản chất, yêu cầu giao hàng thay thế là hình thức trách nhiệm cụ thể của

chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng của người mua đối với người bán khi người bán

vi phạm cơ bản hợp đồng. Khi người bán vi phạm hợp đồng, người mua có quyền áp

dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng như yêu cầu giao hàng, yêu cầu giao hàng

thay thế hoặc sửa chữa hàng hóa không phù hợp với hợp đồng. Tuy nhiên, vấn đề hàng

hóa được giao không phù hợp hợp đồng quy định tại khoản 2 Điều 46 Công ước Viên

liên quan tới việc vi phạm nghĩa vụ của người bán theo Điều 35. Trong bất cứ trường

hợp nào, do việc người bán giao hàng thay thế có thể đưa đến hậu quả xấu, do gánh

nặng tài chính bất cân xứng, và do người mua luôn có quyền đòi bồi thường nếu nhận

hàng không phù hợp, nên khoản 2 Điều 46 Công ước Viên quy định điều kiện người

mua được yêu cầu giao hàng thay thế sẽ dựa trên căn cứ sự không phù hợp của hàng

hóa được giao cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng. Nói cách khác, người mua muốn

Page 127: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

122

yêu cầu giao hàng thay thế phải là người chịu tổn hại đến mức bị tước đi đáng kể

những gì mà anh ta có quyền kỳ vọng từ hợp đồng.

Như vậy, khoản 2 Điều 46 Công ước Viên áp dụng khi: (i) người bán đã giao

hàng không phù hợp với hợp đồng (giao hàng có chất lượng không phù hợp với hợp

đồng, giao sai loại hàng, hàng được đóng gói không phù hợp hoặc giao hàng thiếu);

(ii) Sự không phù hợp của hàng hóa cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng, tức là thỏa

mãn các yếu tố quy định tại Điều 25; và (iii) người mua yêu cầu người bán thay thế

hàng đã giao không phù hợp cùng với thông báo theo Điều 39 hoặc trong một thời hạn

hợp lý sau đó. Nếu thỏa mãn những điều kiện trên thì khoản 2 Điều 46 trao cho người

mua quyền yêu cầu người bán giao hàng thay thế.

Việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng bằng cách yêu cầu giao

hàng thay thế được thể hiện rõ nét trong một số án lệ của Công ước Viên dưới đây:

Vụ Flexo label printing machine [214]: Người bán Đan Mạch và người mua

Trung Quốc ký hợp đồng mua bán 9 máy in màu hiệu Flexo. Người mua đã thanh toán

đầy đủ giá trị hợp đồng là 954,932 USD. Tuy nhiên, máy in được giao cho người mua

không phù hợp với hợp đồng, cụ thể độ in chính xác vượt quá ±0.1 mm và tốc độ in

thấp hơn 175m/phút. Điều này đã được khẳng định tại Biên bản làm việc giữa các

bên, Phụ lục và Chứng nhận giám định hàng hóa. Người mua đã vài lần thông báo cho

người bán biết về sự không phù hợp của máy in và yêu cầu người bán có biện pháp

giải quyết. Người bán đã nhiều lần hứa giải quyết và cử cán bộ kỹ thuật đến sửa chữa

và điều chỉnh máy in với sự hợp tác tích cực của người mua. Tuy nhiên, cuối cùng chất

lượng máy in không phù hợp đã không được khắc phục trong thời gian và với nỗ lực

hợp lý. Hội đồng trọng tài cho rằng, vì thế người mua không thể đạt được mục đích

của hợp đồng, có nghĩa là kỳ vọng từ hợp đồng của người mua bị tước đi. Người bán

hoàn toàn có thể tiên liệu được hậu quả này bởi vì các bên đã thỏa thuận rõ ràng về đặc

điểm chính của máy in như độ chính xác và tốc độ in. Người bán không thể viện lý

rằng anh ta không thể tiên liệu được hậu quả do việc giao hàng không phù hợp hợp

đồng gây ra cho người mua. Sau khi người bán vi phạm hợp đồng, người mua đã gửi

thông báo trong thời hạn quy định tại Điều 39 Công ước Viên. Vì thế, người mua có

quyền yêu cầu thay thế máy in, có nghĩa là người mua có quyền yêu cầu người bán

thay thế máy in hiệu Flexo đã giao không phù hợp với hợp đồng bằng máy in hiệu

Flexo phù hợp với hợp đồng (máy mới).

Page 128: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

123

Vụ Shoe leather [250]: Người mua Đức chào mua 4,400m2 da đặc biệt từ

người ban Ba Lan để giao cho nhà máy sản xuất giày ở Đức. Người bán Ba Lan đã gửi

chào hàng chào bán da theo yêu cầu của người mua dùng cho mục đích sản xuất giày

cho quân đội Đức (Bundeswehr). Người mua chấp nhận chào hàng và người bán gửi

hàng được đặt cho nhà máy sản xuất thứ ba. Người mua không kiểm tra hàng hóa sau

khi hàng hóa đã được giao cho nhà sản xuất. Sau khi giày được sản xuất. Cơ quan

quân nhu và bảo hộ kỹ thuật quốc phòng của Liên bang Đức thông báo rằng hàng hóa

không phù hợp với mô tả của chào hàng. Người mua thông báo cho người bán rằng

hàng không phù hợp, yêu cầu chứng nhận kiểm tra chất lượng và gia hạn thời gian cho

người bán giao hàng thay thế. Trong lúc đó, nhà máy Bundeswehr đã gửi trả toàn bộ

số giày (37,130 đôi). Người bán từ chối giao hàng thay thế và người mua gửi cho

người bán tuyên bố hủy hợp đồng. Tòa tối cao tuyên rằng, giao hàng không phù hợp

với hợp đồng là vi phạm hợp đồng. Quy tắc này xuất phát từ Điều 35 Công ước quy

định rằng đặc tính của hàng hóa phải phù hợp với hợp đồng. Việc giao hàng không đáp

ứng những đặc tính đó cấu thành sự không phù hợp của hàng hóa với hợp đồng. Tuy

nhiên, nếu chỉ là sự không phù hợp của hàng hóa với hợp đồng không cho phép người

mua yêu cầu người bán giao hàng thay thế theo khoản 2 Điều 46 Công ước Viên. Chế

tài này chỉ được áp dụng khi sự không phù hợp đó cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng

theo Điều 25. Điều 25 là quy định rất khó để giải thích vì nó gồm nhiều thuật ngữ mơ

hồ. Đồng thời, điều 25 là quy định rất quan trọng bởi vì vi phạm cơ bản hợp đồng là cơ

sở xác định chế tài nào được áp dụng, đặc biệt là chế tài yêu cầu giao hàng thay thế và

hủy hợp đồng. Tuy nhiên, khi tự do lựa chọn chế tài, người mua phải tuân thủ hợp

đồng và hành động thiện chí thì không nên yêu cầu người bán giao hàng thay thế trước

và sau đó tuyên bố hủy hợp đồng mà không chờ người bán giao hàng thay thế [146,

tr.78].

Người bán giao hàng không phù hợp với hợp đồng cấu thành vi phạm cơ bản

nếu sự không phù hợp đó tước đi của người mua những gì người mua có quyền kỳ

vọng từ hợp đồng. Vi phạm cơ bản để áp dụng chế tài yêu cầu giao hàng thay thế quy

định tại khoản 2 Điều 46 phải được xác định giống như căn cứ hủy hợp đồng theo

điểm a, khoản 1 Điều 49 và phù hợp với quy định chung tại Điều 25.

Yêu cầu người bán giao thay thế số hàng hoá không phù hợp hợp đồng đã giao

thực chất là yêu cầu người bán thực hiện lại nghĩa vụ theo đúng thoả thuận ban đầu.

Page 129: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

124

Tuy nhiên, kể cả khi các điều kiện để được yêu cầu giao hàng thay thế theo khoản 2,

Điều 46 Công ước Viên (như vi phạm cơ bản, hàng nhận đã được trả lại, v.v…) đã

được đáp ứng, và mặc dù người mua sẵn sàng trả lại số hàng đã nhận trước đó, thì toà

án cũng không bị bắt buộc phải yêu cầu người bán giao hàng thay thế nếu biện pháp

này không được sử dụng theo luật mua bán nội địa tương ứng [11, Điều 28].

Điều 46 không chỉ dừng ở quy định trao cho người mua quyền yêu cầu người

bán giao hàng thay thế hàng hóa không phù hợp khi sự không phù hợp đó cấu thành vi

phạm cơ bản hợp đồng. Khoản 3 Điều 46 Công ước Viên cho phép người mua được

quyền yêu cầu người bán đưa ra biện pháp sửa chữa, khắc phục tình trạng không phù

hợp của hàng hóa đã được giao không đúng hợp đồng.

Ngoài việc đáp ứng điều kiện trên, người mua có yêu cầu giao hàng thay thế

phải sẵn sàng trả lại số hàng hoá không phù hợp mà họ đã nhận. Điều này cũng có

nghĩa người mua (luôn luôn) mất quyền yêu cầu người bán phải giao hàng thay thế nếu

họ không thể trả lại hàng hóa trong tình trạng về thực chất giống như tình trạng khi họ

nhận hàng đó, trừ khi: (i) việc không thể hoàn lại hàng hóa hoặc không thể hoàn lại

hàng hóa trong tình trạng về cơ bản giống như tình trạng hàng hóa khi người mua nhận

được không phải là do hành động hay sơ suất của người mua; (ii) hàng hóa hoặc một

phần hàng hóa không thể sử dụng được hoặc bị hư hỏng; (iii) người mua đã bán trong

điều kiện kinh doanh thông thường hay đã tiêu dùng hoặc biến đổi toàn bộ hay một

phần hàng hóa theo cách sử dụng thông thường trước khi phát hiện ra hoặc phải phát

hiện ra sự không phù hợp của hàng hóa [11, Điều 82].

Từ những phân tích trên có thể rút ra một số nhận xét sau:

(1) Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng nhằm bảo vệ quan hệ hợp đồng và

giúp các bên đạt được những lợi ích mà họ hướng đến khi giao kết hợp đồng: người

mua có hàng hóa – đối tượng của hợp đồng, người bán được thanh toán giá hàng hóa.

Điều đó có nghĩa là, với biện pháp buộc thực hiện đúng hợp đồng, kỳ vọng của các

bên từ hợp đồng được đáp ứng. Khi người bán vi phạm hợp đồng, người mua có quyền

áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng như yêu cầu người bán giao hàng, giao

hàng thiếu, giao đúng loại hàng, sửa chữa, khắc phục sự khiếm khuyết của hàng hóa

hoặc yêu cầu giao hàng thay thế. Tuy nhiên, không phải lúc nào và với vi phạm nào

của người bán, người mua cũng có thể “tùy tiện” áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng

Page 130: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

125

hợp đồng bằng cách yêu cầu người bán giao hàng thay thế mà chỉ khi hành vi giao

hàng không phù hợp đó của người bán cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng.

(2) Khi người bán giao hàng không phù hợp với hợp đồng cấu thành vi phạm cơ

bản hợp đồng, tức là hành vi vi phạm này của người bán đã tước đi đáng kể những gì

người mua có quyền kỳ vọng từ hợp đồng. Như vậy, lợi ích mà người mua hướng tới

không thể đạt được. Lúc này, người mua có thể lựa chọn chế tài nhằm chấm dứt quan

hệ hợp đồng với người bán. Tuy nhiên, với mục đích giúp các bên duy trì quan hệ hợp

đồng, bảo vệ hợp đồng MBHHQT được giao kết giữa các bên, Công ước Viên quy

định trong trường hợp này người mua có quyền yêu cầu người bán giao hàng thay thế

như cách thức để người mua “toại nguyện”, “đạt được những gì họ kỳ vọng” từ hợp

đồng mà không ảnh hưởng đến quan hệ hợp đồng giữa các bên và hợp đồng vẫn có thể

tiếp tục được thực hiện chứ không bị hủy. Buộc thực hiện đúng hợp đồng chỉ là một hệ

quả của hiệu lực ràng buộc thực hiện hợp đồng hợp pháp: bên có nghĩa vụ cam kết

cung cấp cho bên có quyền một lợi ích và hiệu lực ràng buộc thực hiện hợp đồng buộc

bên có nghĩa vụ cung cấp lợi ích này cho bên có quyền. Điều này cũng thể hiện yêu

cầu các bên cũng như cơ quan giải quyết tranh chấp “tôn trọng” hợp đồng, tức là yêu

cầu giao hàng thay thế khi sự không phù hợp của hàng hóa cấu thành vi phạm cơ bản

hợp đồng là giải pháp phù hợp với ý chí chung của các bên, tạo điều kiện cho ý chí

chung được thực hiện, được tôn trọng.

(3) Công ước đưa ra “ngoại lệ” đối với việc áp dụng chế tài buộc thực hiện

đúng hợp đồng bằng cách yêu cầu giao hàng thay thế khi “không thể trả lại hàng hóa

trong tình trạng về thực chất giống như tình trạng khi họ nhận hàng đó”, trừ trường

hợp hàng hóa bị hư hỏng hoặc không sử dụng được, do hành động hay sơ suất của

người mua hoặc người mua đã bán hay đã tiêu dùng hay làm biến đổi tình trạng ban

đầu của hàng hóa. Ngoại lệ này thể hiện yêu cầu giao hàng thay thế là không thể thực

hiện được hay nói cách khác người mua mất quyền yêu cầu giao hàng thay thế. Quy

định này phần nào bảo vệ cho quyền lợi của người bán khi bị yêu cầu giao hàng thay

thế.

Kết luận Chương 4

Vi phạm cơ bản hợp đồng vừa là căn cứ để hủy hợp đồng do không thực hiện

nghĩa vụ hợp đồng, do hàng hóa được giao có chất lượng không phù hợp với hợp

đồng, vừa là căn cứ để hủy hợp đồng do vi phạm hợp đồng dự đoán trước và yêu cầu

Page 131: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

126

giao hàng thay thế. Từ phân tích quy định và thực tiễn về hệ quả pháp lý khi có vi

phạm cơ bản có thể kết luận rằng:

(1) Hệ quả pháp lý do vi phạm cơ bản hợp đồng thường là hủy hợp đồng. Các

hành vi vi phạm hợp đồng như không giao hàng, không giao chứng từ liên quan đến

hàng hóa, không thanh toán, không nhận hàng trong thời hạn quy định của hợp đồng

và Công ước hoặc sau thời hạn gia hạn thêm đều thỏa mãn các yếu tố quy định tại

Điều 25 và cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng. Lúc này, hủy hợp đồng là hệ quả pháp

lý tất yếu. Tuy nhiên, đối với trường hợp hàng hóa được giao không phù hợp thì quyền

hủy hợp đồng của người mua bị giới hạn bởi khả năng khắc phục vi phạm cơ bản của

người bán mà không mang lại cho người mua chi phí bất hợp lý nào. Điều này cho

thấy quyền lợi của người bán và người mua được Công ước Viên điều chỉnh một cách

“bình đẳng”, không “thiên vị”.

(2) Sự không phù hợp của hàng hóa cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng có thể

dẫn đến hệ quả pháp lý là người mua yêu cầu người bán thay thế hàng được giao

không phù hợp với hợp đồng. Đây được xem như giải pháp duy trì quan hệ hợp đồng

giữa các bên bởi “Hợp đồng sinh ra không phải để bị triệt tiêu (bị hủy) mà là để được

thực hiện nhằm đem lại cho các bên lợi ích hợp pháp mà họ mong đợi. Chính vì vậy,

trước việc không thực hiện đúng hợp đồng, chúng ta cần ưu tiên nghiên cứu và sử

dụng những biện pháp cho phép hợp đồng được thực hiện đầy đủ để đem lại cho các

bên lợi ích hợp pháp mà họ mong đợi như buộc tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng;

những biện pháp làm triệt tiêu hợp đồng sẽ được nghiên cứu, và chỉ nên được sử dụng,

như biện pháp cuối cùng” [22, tr.212].

(3) Cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, PICC và PECL, Công ước Viên cho

phép hủy hợp đồng trước thời hạn, tức là quy tắc về vi phạm hợp đồng dự đoán trước

đã được chấp nhận trong Công ươc Viên. Tuy nhiên, điều kiện để hủy hợp đồng trước

thời hạn là phải có rõ ràng hành vi vi phạm cơ bản hợp đồng hoặc có lý do xác đáng để

tin rằng vi phạm cơ bản hợp đồng sẽ xảy ra đối với lần giao hàng trong tương lai.

Page 132: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

127

CHƯƠNG 5

ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ VI PHẠM CƠ BẢN HỢP ĐỒNG

TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Vi phạm cơ bản hợp đồng là căn cứ quan trọng để áp dụng chế tài hủy bỏ hợp

đồng trong Luật Thương mại, bên cạnh chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình

chỉ thực hiện hợp đồng khi các bên không có thỏa thuận về các chế tài này. Từ kết quả

nghiên cứu quy định của Công ước Viên về vi phạm cơ bản hợp đồng cũng như thực

tiễn vận dụng của tòa án, trọng tài của một số quốc gia thành viên Công ước để xác

định các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng và chế tài do vi phạm cơ

bản hợp đồng, nội dung dưới đây sẽ chỉ ra một số bất cập trong pháp luật Việt Nam

cũng như thực tiễn vận dụng quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng và đề xuất định

hướng và giải pháp hoàn thiện quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng trong pháp luật

Việt Nam.

5.1. Một số bất cập của quy định và thực tiễn áp dụng quy định về vi phạm cơ

bản trong pháp luật Việt Nam

Nghiên cứu quy định của Công ước Viên về vi phạm cơ bản hợp đồng có so

sánh với quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng trong Luật Thương mại và đối chiếu

với thực tiễn vận dụng quy định này của tòa án, trọng tài của một số quốc gia thành

viên Công ước cho thấy quy định trong Công ước Viên được vận dụng rất linh hoạt và

gắn chặt với việc áp dụng các quy định khác của Công ước, tạo thành một thể thống

nhất.

Vi phạm cơ bản hợp đồng trong pháp luật Việt Nam là căn cứ quan trọng để áp

dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ

hợp đồng, trong đó đáng chú ý là chế tài hủy bỏ hợp đồng vì hậu quả pháp lý của chế

tài này rất nặng nề. Tuy nhiên, trên cơ sở kết quả nghiên cứu quy định và thực tiễn xác

định các yếu tố cấu thành vi phạm cơ bản cũng như hệ quả pháp lý do vi phạm cơ bản

hợp đồng theo Công ước Viên, người viết cho rằng quy định về vi phạm cơ bản hợp

đồng trong pháp luật Việt Nam còn tồn tại nhiều bất cập cả về nội dung pháp luật thực

định lẫn thực trạng vận dụng đòi hỏi phải hoàn thiện để đảm bảo tính áp dụng thực tiễn

của các quy định này, cụ thể như sau:

5.1.1. Tồn tại song song hai thuật ngữ “vi phạm cơ bản” và “vi phạm nghiêm

trọng”

Hiện nay, trong các quy định pháp luật thực định của Việt Nam đang tồn tại 2

thuật ngữ là “vi phạm cơ bản” và “vi phạm nghiêm trọng”. Thuật ngữ “vi phạm cơ

Page 133: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

128

bản” xuất hiện trong Luật Thương mại và một số văn bản dưới luật khác như: Điều 50

Mẫu hồ sơ mời thầu xây lắp (Ban hành kèm theo Thông tư 03/2015/TT-BKHĐT ngày

06/05/2015 của Bộ KH&ĐT quy định chi tiết lập hồ sơ mời thầu xây lắp), Điều 29

Mẫu hồ sơ mời thầu mua sắm hàng hóa (Ban hành kèm theo Thông tư 05/2015/TT-

BKHĐT ngày 16/06/2015 của Bộ KH&ĐT quy định chi tiết lập hồ sơ mời thầu mua

sắm hàng hóa). Trong khi đó, “vi phạm nghiêm trọng” xuất hiện ở 30 Bộ luật, Luật

và 21 Pháp lệnh.

Vi phạm cơ bản là căn cứ để áp dụng các chế tài tạm ngừng thực hiện hợp

đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng thương mại thì “vi phạm

nghiêm trọng” là thuật ngữ được sử dụng trong Bộ luật dân sự và là căn cứ để một

bên trong giao dịch dân sự có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng.

Cụ thể:

Điều 521 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “1. Yêu cầu bên cung ứng dịch vụ

thực hiện công việc theo đúng chất lượng, số lượng, thời hạn, địa điểm và các thỏa

thuận khác; 2. Trong trường hợp bên cung ứng dịch vụ vi phạm nghiêm trọng nghĩa

vụ thì bên thuê dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu

bồi thường thiệt hại”;

Điều 550 Bộ luật dân sự quy định: “Bên đặt gia công có các quyền sau đây: 1.

Nhận sản phẩm gia công theo đúng số lượng, chất lượng, phương thức, thời hạn và

địa điểm đã thỏa thuận. 2. Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi

thường thiệt hại khi bên nhận gia công vi phạm nghiêm trọng hợp đồng”. Hay theo

Điều 498 Bộ luật dân sự, bên cho thuê nhà có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện

hợp đồng thuê nhà khi bên thuê cố ý làm nhà hư hỏng nghiêm trọng (tài sản cho thuê);

bên thuê nhà có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà khi bên cho

thuê không sữa chữa nhà khi chất lượng nhà giảm sút nghiêm trọng.

Xét về mục đích của thuật ngữ thì vi phạm cơ bản hay vi phạm nghiêm trọng

đều đề cập đến vi phạm hợp đồng gây ảnh hưởng, tác động lớn đến bên bị vi phạm. Vi

phạm cơ bản hay vi phạm nghiêm trọng không chỉ là khái niệm khoa học mà là căn cứ

pháp lý góp phần quan trọng vào việc ổn định các quan hệ hợp đồng, ổn định giao lưu

dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể - một yêu cầu khách quan

của bất cứ nền kinh tế thị trường nào [6]. Tuy nhiên, việc tồn tại song song hai thuật

Page 134: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

129

ngữ “vi phạm cơ bản” và “vi phạm nghiêm trọng” tạo nên sự không thống nhất trong

pháp luật hợp đồng Việt Nam, dễ gây nhầm lẫn cho các chủ thể áp dụng nó.

Bên cạnh đó, trong khi nội hàm của thuật ngữ “vi phạm nghiêm trọng” chưa

được làm sáng tỏ trong bất cứ văn bản pháp luật nào, pháp luật Việt Nam tiếp tục tiếp

thu thuật ngữ “vi phạm cơ bản” dẫn đến khó khăn trong tiếp cận, giải thích thuật ngữ

và vận dụng nó trong thực tiễn. Bởi lẽ, trong thực tiễn, đã có trường hợp trọng tài xác

định vi phạm hợp đồng theo Luật Thương mại nhưng lại dùng vi phạm nghiêm trọng

để kết luận về vi phạm. Ví dụ: Trọng tài trong vụ tranh chấp hợp đồng mua bán thép

giữa người mua (Việt Nam) và người bán (Trung Quốc) đã tuyên rằng “Theo quy định

tại Điều 56 Luật thương mại Việt Nam năm 2005, Bên mua có nghĩa vụ chấp nhận

thanh toán theo quy định của L/C đã mở (bộ chứng từ không có dấu hiệu không phù

hợp) và nhận hàng. Nhưng nguyên đơn đã không thanh toán và không nhận hàng là

một vi phạm nghiêm trọng hợp đồng đã ký” [53, tr.14]. Tương tự, vụ tranh chấp giữa

người mua (Việt Nam) và người bán (Hoa Kỳ), Trọng tài quyết định “Trong thực tế,

sau khi bị SGS Việt Nam từ chối giám định, Nguyên đơn đã tự mình yêu cầu ngay

Vinacontrol giám định mà không thông báo cho Bị đơn biết. Lý giải của Nguyên đơn

về vấn đề này là không thể chấp nhận được. Với trình độ của công nghệ thông tin như

hiện nay thì việc thông báo, thậm chí trao đổi và quyết định một vấn đề có thể tính

bằng phút. Như vậy, về hính thức, nguyên đơn đã vi phạm nghiêm trọng điều khoản về

giám định của hợp đồng” [53, tr.93]. Trọng tài đưa ra lý giải cụ thể tại sao lại nhìn

nhận hành vi vi phạm đó của người bán là vi phạm nghiêm trọng, trong khi không tìm

thấy quy định nào trong hệ thống pháp luật thực định của Việt Nam giải thích về khái

niệm vi phạm nghiêm trọng, một vi phạm hợp đồng như thế nào thì bị coi là vi phạm

nghiệm trọng và hậu quả pháp lý của vi phạm nghiêm trọng là gì?. Bên cạnh đó, cơ

quan tài phán sử dụng Luật Thương mại để xem xét nghĩa vụ và vi phạm nghĩa vụ của

các bên nhưng khi kết luận vi phạm lại sử dụng thuật ngữ “vi phạm nghiêm trọng”

không có trong Luật Thương mại và cũng không có lý giải thỏa đáng khi đưa ra kết

luận này.

Theo người viết, vi phạm cơ bản hay vi phạm nghiêm trọng đều là những thuật

ngữ được sử dụng để chỉ tính chất nghiêm trọng của hành vi vi phạm hợp đồng, từ đó

cho phép áp dụng các chế tài phù hợp nhằm đảm bảo an toàn pháp lý của giao dịch của

Page 135: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

130

các bên. Vì vậy, về mặt bản chất, có thể thấy hai thuật ngữ này tương đồng với nhau.

Tuy nhiên, sự tồn tại song song hai thuật ngữ có cùng bản chất trong pháp luật hợp

đồng là điều bất cập cần được gỡ bỏ bởi nó không chỉ dễ gây nhầm lẫn mà còn không

đảm bảo sự tương thích với pháp luật quốc tế (Công ước Viên, PICC, PECL đều sử

dụng vi phạm cơ bản hoặc không thực hiện cơ bản hợp đồng), đặc biệt là khi Việt Nam

đang tích cực chuẩn bị tham gia Công ước Viên..

5.1.2. Bất cập trong quy định và thực tiễn xác định các yếu tố cấu thành tính

cơ bản của vi phạm hợp đồng tại khoản 13 Điều 3 của Luật thương mại

Khoản 13 Điều 3 Luật thương mại quy định: Vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp

đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được

mục đích của việc giao kết hợp đồng. Dựa vào quy định này có thể thấy, để xác định

tính cơ bản của vi phạm hợp đồng thì cần phải xác định 02 (hai) yếu tố sau đây [5]: (i)

Có thiệt hại cho bên bị vi phạm; (ii) mục đích của việc giao kết hợp đồng của bên bị vi

phạm bị mất đi.

Hai yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng theo Luật Thương mại

cũng có những nét tương đồng với yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng

theo Công ước Viên (điều này đã được làm rõ ở Chương 3). Tuy nhiên, từ kết quả

nghiên cứu Công ước Viên và thực tiễn xác định các yếu tố cấu thành vi phạm cơ bản

quy định tại Điều 25 Công ước Viên của tòa án, trọng tài của một số quốc gia thành

viên Công ước đối chiếu với hai yếu tố nói trên cho thấy một số bất cập sau:

5.1.2.1. Yếu tố thiệt hại quy định tại khoản 13 Điều 13 là không rõ ràng và

không cần thiết

Theo khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại, để xác định một hành vi vi phạm là cơ

bản, trước hết phải xác định có hay không có thiệt hại. Nói cách khác, thiệt hại là yếu

tố bắt buộc khi xem xét vi phạm cơ bản hợp đồng theo Luật Thương mại. Tuy nhiên,

không phải mọi hành vi vi phạm hợp đồng đều gây ra thiệt hại cho bên bị vi phạm.

Ngay cả khi có thiệt hại của bên bị vi phạm nhưng chưa chắc đã là thiệt hại do hành vi

vi phạm hợp đồng gây ra.

Yếu tố đầu tiên để xác định vi phạm cơ bản hợp đồng theo Luật Thương mại

đòi hỏi phải có tồn tại thiệt hại. Điều này có nghĩa là, hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp

đồng dù đến mức vi phạm nào đi chăng nữa nhưng không gây thiệt hại cho bên kia thì

không có vi phạm cơ bản hợp đồng. Tuy nhiên, thiệt hại ở đây là thiệt hại gì: vật chất,

Page 136: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

131

tinh thần hay thiệt hại pháp lý thì Luật Thương mại không có quy định cụ thể và đến

nay chưa có hướng dẫn, giải thích rõ ràng.

Luật Thương mại chỉ giải thích nội hàm của “thiệt hại” tại quy định về bồi

thường thiệt hại ở Điều 302, theo đó thiệt hại là tổn thất mà tổn thất đó phải là thực tế,

trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà

bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng. Tồn tại tổn thất là yêu cầu bắt buộc khi áp dụng

chế tài bồi thường thiệt hại, tức là bồi thường những tổn thất thực tế mà bên bị vi phạm

phải gánh chịu. Tuy nhiên, nội hàm của thuật ngữ thiệt hại còn rộng hơn nhiều, không

chỉ dừng lại ở tổn thất, mất mát tài sản hay thu nhập mà còn là uy tín kinh doanh. Các

nhà soạn thảo Luật Thương mại đã đồng nhất “thiệt hại” là “tổn thất”, trong khi đó,

thiết nghĩ, không phải lúc nào “thiệt hại” cũng là tổn thất. Trong tiếng Việt, thiệt hại,

hiểu theo nghĩa thông thường, là “những hậu quả bất lợi ngoài ý muốn về tài sản hoặc

phi tài sản do một sự kiện hoặc một hành vi nào đó gây ra; những chi phí đã phải bỏ ra

để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại; những hư hỏng mất mát về tài sản, thu

nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút” [36, tr.1121]. Như vậy, thiệt hại theo nghĩa rộng là

những “hậu quả bất lợi ngoài ý muốn”, theo nghĩa hẹp và trực tiếp nhất thiệt hại là tổn

thất, là mất mát.

Những hậu quả bất lợi ngoài ý muốn (về mặt vật chất, tinh thần hay pháp lý)

luôn là hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng, bao gồm cả những thiệt hại thực tế,

tiên liệu trước hoặc thiệt hại phi thực tế. Điều này đã làm cho thuật ngữ “thiệt hại”

được sử dụng để giải thích “vi phạm cơ bản” nghĩa vụ hợp đồng càng trở nên “mơ hồ,

trừu tượng” hơn và đôi khi dễ nhầm lẫn với xác định thiệt hại trong chế tài bồi thường

thiệt hại. Khi đó, thiệt hại do vi phạm hợp đồng phải thực sự rõ ràng thì mới có thể đủ

cơ sở để xem xét tiếp yếu tố khác để xác định tính cơ bản của vi phạm hợp đồng.

Bên cạnh đó, với chế tài bồi thường thiệt hại, bên bị vi phạm muốn áp dụng chế

tài này có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại, tức là chứng minh tổn thất thực tế, trực tiếp

và khoản thu nhập bị bỏ lỡ, chứng minh được bao nhiêu thì cơ quan tài phán có cơ sở

để chấp nhận bấy nhiêu [37, tr.432]. Tuy nhiên, thực tiễn vận dụng quy định về vi

phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên cho thấy, đối với vi phạm cơ bản hợp

đồng, nghĩa vụ chứng minh có tồn tại thiệt hại hay không thuộc về bên bị vi phạm

nhưng việc ghi nhận mức độ thiệt hại để xác định tính cơ bản của vi phạm hợp đồng

thuộc về cơ quan tài phán, chỉ có cơ quan tài phán mới có thể “cân đo” được thiệt hại

đã “đến mức” làm cho bên bị vi phạm không đạt được mục đích của việc giao kết hợp

đồng hay chưa.

Page 137: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

132

Như vậy, bất cập của thuật ngữ “thiệt hại” không chỉ còn nằm ở sự thiếu rõ

ràng, cụ thể về nội hàm của thuật ngữ mà còn dễ dẫn đến sự đa dạng trong kết luận,

xác định của cơ quan tài phán và sự thiếu thống nhất trong quan điểm xét xử, giải

quyết tranh chấp. Mỗi thẩm phán, mỗi trọng tài viên đều có trình độ và nhận thức

không giống nhau nên việc nhìn nhận vấn đề pháp lý có thể sẽ khác nhau. Đối với xác

định mức độ thiệt hại, sự đa dạng trong trình độ và nhận thức pháp lý dễ dẫn đến sự đa

dạng trong xác định mức độ thiệt hại và đôi khi là xác định một cách chung chung.

Chẳng hạn, Tòa án nhân dân Tp.Hồ Chí Minh đã tuyên rằng [177] “việc Bên bán giao

hàng không đúng phẩm chất và không chịu khắc phục sửa chữa theo khiếu nại của Bên

mua làm cho Bên mua bị thiệt hại nghiêm trọng” nhưng không nêu rõ Bên mua bị thiệt

hại gì, nghiêm trọng đến mức nào để rồi kết luận “do đó có cơ sở cho rằng Bên bán đã

vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng theo khoản 13 Điều 3 Luật thương mại năm 2005”.

Hay, tranh chấp giữa người mua Nga và người bán Việt Nam [53, tr.27], theo đó

“ngày 24/3/2006, người mua (Nga), đại diện là ông X (giám đốc) và người bán (Việt

Nam), đại diện là ông Y (Tổng Giám đốc) đã ký hợp đồng, theo đó điều kiện giao hàng

là CIF Vladivostok, phương thức thanh toán bằng điện chuyển tiền trả trước

60.000USD trước khi bốc hàng lên tàu và thanh toán nốt 103.139,80 USD trong 3

ngày làm việc sau khi nhận được vận đơn. Sau khi nhận được tiền ngày 26/3/2006,

người bán không trả lời các bản fax của người mua đề ngày 3/6/2006, ngày 7/6/2006,

ngày 13/6/2006 và ngày 20/6/2006. Người mua cho rằng việc người bán không giao

hàng đã gây thiệt hại về kinh tế rất lớn và làm mất uy tín của người mua. Trọng tài đã

chấp nhận quan điểm này của người mua và buộc người bán trả lại tiền đã nhận từ

người mua”. Tuy nhiên, trong quyết định của mình, không có quan điểm nào của trọng

tài cho thấy trọng tài đã yêu cầu người mua chứng minh thiệt hại như người mua viện

dẫn cũng như xem xét mức độ thiệt hại mà người mua phải gánh chịu. Trọng tài đưa ra

phán quyết yêu cầu người bán trả lại cho người mua số tiền người bán đã nhận từ

người mua, về bản chất, cũng thể hiện ý muốn chấm dứt hợp đồng với người bán.

Đáng chú ý hơn, thậm chí trong một bản án [178], Hội đồng xét xử phúc thẩm,

Tòa án nhân dân Tp.Hồ Chí Minh đã tuyên rằng: “Từ lập luận trên đủ cơ sở để xác

định nguyên đơn không chứng minh được thiệt hại phải gánh chịu từ việc bị đơn

không thực hiện nghĩa vụ giao hàng đúng thời hạn ghi trong các hợp đồng B30067

ngày 7/5/2010, B30076 ngày 24/5/2010 và B30082 ngày 3/6/2010” và xử “Chấp nhận

một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn – Công ty Nespice Việt Nam: a) Đình chỉ

thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hóa số B30067 ngày 7/5/2010, B30076 ngày

Page 138: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

133

24/5/2010 và B30082 ngày 3/6/2010 giữa Công ty Nespice Việt Nam với bà Phượng,

chủ Doanh nghiệp Phượng Hoàng”.

Bên cạnh sự không rõ ràng về mặt nội dung của yếu tố thiệt hại do vi phạm hợp

đồng gây ra đủ để cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng, việc xem thiệt hại là yếu tố bắt

buộc khi xác định vi phạm hợp đồng là cơ bản hay không đã không cần thiết trong rất

nhiều vụ án, vụ tranh chấp được giải quyết bởi tòa án, trọng tài. Nói cách khác, thực

tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa tại Việt Nam, tòa án, trọng tài

đã không xem xét đến yếu tố thiệt hại khi xác định và kết luận về vi phạm cơ bản hợp

đồng.

Vụ thứ 1 [174]: Ngày 26/9/2007, Nguyên đơn (Công ty cho thuê tài chính II –

Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam) và Bị đơn (Công ty TNHH

một thành viên đóng tàu Đà Nẵng) ký với nhau một hợp đồng đóng mới tàu biểu số

104/07/HĐ ĐMTB-ĐN với nội dung Bị đơn đồng ý đóng mới cho Nguyên đơn 01 tàu

biển vỏ thép chở hàng khô, trọng tải thiết kế 3.242 tấn, mới 100%, tổng giá trị hợp

đồng 32.000.000.000đ, thời hạn giao tàu tháng 3/2008, địa điểm giao tàu là tại xưởng

đóng tàu của Bị đơn. Thực hiện hợp đồng, Nguyên đơn đã chuyển cho Bị đơn số tiền

là 25.600.000.000đ nhưng quá thời hạn trên Bị đơn không thực hiện việc giao tàu như

hợp đồng đã ký. Hội đồng xét xử phán quyết rằng: “Hợp đồng số 104 ngày 26/9/2007

được giao kết giữa hai bên thực chất là hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo hợp đồng

thì thời hạn giao hàng (giao tàu) được quy định tại Điều 3 hợp đồng là tháng 3/2008

đến thời điểm Nguyên đơn khởi kiện (ngày 14/7/2010) là đã quá thời hạn giao tàu gần

30 tháng, trong hợp đồng mua bán hàng hóa thời hạn giao hàng là một điều khoản cơ

bản của hợp đồng mà các bên phải cam kết thực hiện. Nhưng do không thực hiện

nghĩa vụ giao tàu theo thời hạn đã ký kết nên Nguyên đơn có quyền hủy bỏ hợp đồng

theo quy định tại điểm b, khoản 4 Điều 312 Luật thương mại”.

Vụ thứ 2 [180]: Ngày 07/07/2008 và 18/08/2008, Công ty TNHH Thương mại

và Dịch vụ Mỹ Tín (Bên A) có ký hai hợp đồng nguyên tắc số 20/08/POS/MT và

25/08/POS/MT với Công ty TNHH Sản xuất – Thương mại và Dịch vụ Những bạn

hữu (Bên B), theo đó Bên B bán cho Bên A một số mặt hàng quà tặng gồm đồng hồ,

khung hình, đế để điện thoại theo mẫu mà hai bên đã thỏa thuận. Điều 3 của hai hợp

đồng quy định “Thời gian giao hàng từ 20/8/2008 đến 30/8/2008 và từ 05/09/2008 đến

15/09/2008”. Tuy nhiên, Bên B không giao hàng mặc dù đã được Bên A nhiều lần

Page 139: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

134

nhắc nhở. Tòa án đã kết luận “Như vậy đã có đủ cơ sở để xác định phía bị đơn đã vi

phạm nghĩa vụ giao hàng (không thực hiện nghĩa vụ giao hàng) được quy định tại Điều

37 Luật thương mại năm 2005” và tuyên “hủy bỏ hai hợp đồng nguyên tắc

20/08/POS/MT và 25/08/POS/MT”. Quan điểm này cũng tương tự quan điểm của tòa

án trong vụ án giữa Công ty TNHH MTV 76 và Công ty CP Thương mại xây dựng

dịch vụ xuất nhập khẩu Tường Quang [175], theo đó Công ty Tường Quang bán cho

Công ty 76 mặt hàng vải bạt phu keo PVC khổ 1m, số lượng 351.000m với giá

30.000đồng/m. Tòa án đã tuyên rằng “Công ty Tường Quang chưa thực hiện việc giao

số hàng theo thỏa thuận của hợp đồng mặc dù Công ty 76 đã thực hiện nghĩa vụ trả

tiền. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định phía bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ giao hàng

(không thực hiện nghĩa vụ giao hàng) được quy định tại Điều 37 và khoản 2 Điều 310

Luật thương mại năm 2005. Căn cứ khoản 5 Điều 292, Điều 311, Điều 306 Luật

thương mại năm 2005 nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn đình chỉ hợp đồng

mua bán số 159/HĐMB/CT6-TQ”. Tương tự, “do Công ty Cao Đông không giao mặt

bằng 21A Bùi Thị Xuân cho bà Trang theo hợp đồng hợp tác kinh doanh, như vậy đã

vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng nên bà Trang yêu cầu hủy bỏ hợp đồng là có căn cứ

theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 312 Luật thương mại” [179].

Vụ thứ 3 [173]: Ngày 2/8/2006, Công ty Sói Đất ký hợp đồng mua bán số

009/HĐMB/DDT với Công ty Đô Thành mua 1 chiếc xe ô tô loại Matiz Se Color 5

chỗ, mới 100%, được lắp ráp tại Việt Nam năm 2006; màu bạc; giá 13.250USD; thời

gian giao xe ngày 4/8/2006. Theo Bên mua, đến ngày 8/8/2006, Công ty Đô Thành

thực hiện giao xe cho Công ty Sói Đất nhưng xe giao không đúng với quy cách, quy

định trong hợp đồng. Cụ thể là: xe ô tô được lắp ráp tại Việt Nam năm 2005. Và chất

lượng xe cũng không tốt như có nhiều vết han rỉ, sơn bị phồng rộp nhiều chỗ. Khi

tranh chấp xảy ra, Tòa án cho rằng “Ngay sau khi kiểm tra xe ô tô do Công ty Đô

Thành giao, Công ty Sói Đất đã có khiếu nại về quy cách hàng hóa không đúng, yêu

cầu Công ty Đô Thành thực hiện giao xe theo đúng hợp đồng là đúng với khoản 1,

Điều 292 Luật thương mại năm 2005 và hủy bỏ hợp đồng mua bán theo khoản 6, Điều

292; điểm b, khoản 4, Điều 312 Luật thương mại năm 2005…Vì vậy, yêu cầu khiếu

nại, khởi kiện của Công ty Sói Đất là hủy hợp đồng mua bán xe ô tô 009/HĐMB/DDT

nói trên…là có căn cứ pháp luật”.

Page 140: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

135

Vụ thứ 4 [181]: Công ty CP địa ốc Sài Gòn thương tín (nguyên đơn) và Công

ty TNHH Tư vấn thiết kế và xây dựng Hưng Đức (Bị đơn) đã ký hợp đồng

10/2009/HĐ-VLXD ngày 01/10/2009, theo đó Bị đơn đồng ý mua các mặt hàng thép

Pomina của Nguyên đơn. Căn cứ điểm 3.1 Điều 3 của hợp đồng thì “Bên B thanh toán

trong vòng 30 ngày (tính theo lịch làm việc) kể từ ngày nhận hàng”. Căn cứ vào các

Biên bản giao nhận hàng và hóa đơn, thì nguyên đơn đã giao hàng đợt cuối cùng cho

bị đơn là vào ngày 25/12/2009, cho đến nay đã quá thời hạn hơn 18 tháng nhưng bị

đơn không thanh toán. Do đó, tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn – chấm dứt

hợp đồng nguyên tắc số 10/2009/HĐ-VLXD ngày 01/10/2009. Tương tự, “trong quá

trình thực hiện hợp đồng, phía nguyên đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền thuê

nhà xưởng (còn nợ 15 tháng tiền thuê nhà xưởng); vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền

bảo vệ (còn nợ 8 tháng tiền bảo vệ) và thực sự có lỗi trong việc thực hiện nghĩa vụ của

hợp đồng, đây là nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng được quy định tại Điều 310 Luật

thương mại năm 2005 (…). Như vậy, bên nguyên đơn đã vi phạm nghĩa vụ cơ bản của

hợp đồng là không thanh toán tiền thuê nhà xưởng mà hợp đồng hai bên đã ký kết và

thực hiện, do đó bên bị đơn đình chỉ việc thực hiện hợp đồng là có cơ sở” [182].

Vụ thứ 5[53, tr.14]: Người mua (Việt Nam) ký hợp đồng với người bán (Trung

Quốc), theo đó người bán đồng ý bán cho người mua lô thép góc phổ thông Q325, theo

tiêu chuẩn GB9787-1988, xuất xứ Trung Quốc, số lượng 750MT+_10% (dung sai do

người bán chọn), đơn giá 445 USD/MT CFR FO cảng Hải Phòng – Việt Nam theo

Incoterms 2000, giao hàng từng phần, thanh toán bằng L/C không hủy ngang. Thực

hiện hợp đồng, ngày 17/5/2006, người mua đã mở L/C không hủy ngang tại Ngân

hàng X cho việc thanh toán cho hợp đồng. Ngày 8/6/2006, lô hàng thứ nhất với số

lượng là 436,484MT thép góc theo vận đơn sô RW-07 về đến cảng Hải Phòng. Người

mua nhận thấy bằng kinh nghiệm, lô hàng 436,484 không đạt tiêu chuẩn chất lượng

theo quy định của hợp đồng nên đã không nhận hàng và thông báo cho người bán biết

về những khiếm khuyết của lô hàng. Sau nhiều lần thương lượng và yêu cầu người bán

thay thế hàng nhưng người bán không thực hiện. Người mua đã khởi kiện Người bán

ra trọng tài với các lẽ sau: Người bán giao lô hàng thứ nhất kém chất lượng, không thể

sử dụng cho việc xây dựng công trình trọng điểm của người mua. Tuy nhiên, Trọng tài

tuyên rằng “Theo quy định tại Điều 56 Luật thương mại Việt Nam năm 2005, Bên mua

Page 141: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

136

có nghĩa vụ nhận hàng. Nhưng nguyên đơn đã không nhận hàng là một vi phạm

nghiêm trọng hợp đồng đã ký”.

Từ những phân tích trên có thể rút ra một số nhận xét sau:

(1) Trong các vụ án viện dẫn ở trên, tòa án, trọng tài đã không xem xét đến yếu

tố thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng (không giao hàng, giao hàng không đúng quy

cách, phẩm chất, không thanh toán tiền hàng và không nhận hàng) mà bên bị vi phạm

phải gánh chịu cũng như mục đích của việc giao kết hợp đồng. Cách xử lý có một

phần tương tự cách xử lý của tòa án, trọng tài của một số quốc gia thành viên Công

ước Viên như đã phân tích ở Chương 3. Các tòa án, trọng tài này cũng không xem xét

đến việc có tồn tại tổn hại đáng kể do hành vi vi phạm gây ra hay không đối với những

hành vi không giao hàng, không thanh toán tiền hàng và không nhận hàng và giao

hàng không đúng quy cách, phẩm chất với tỷ lệ không đúng ở mức cao. Tuy nhiên,

điều đáng tiếc ở đây là tòa án, trọng tài trong các vụ viện dẫn trên cũng không xem xét

mục đích của việc giao kết hợp đồng có bị ảnh hưởng hay không, ảnh hưởng đến mức

độ nào để từ đó kết luận có hay không có hành vi vi phạm cơ bản hợp đồng làm cơ sở

cho việc áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng. Tòa án, trọng tài của một số quốc gia thành

viên Công ước Viên lại nhấn mạnh việc xem xét mục đích mua hàng, những gì các bên

mong muốn trên cơ sở hợp đồng.

Người viết cho rằng, hành vi không thực hiện hợp đồng - không giao hàng, giao

hàng không đúng quy cách, phẩm chất, không thanh toán tiền hàng và không nhận

hàng có thể gây ra cho người bán những “hậu quả bất lợi ngoài ý muốn” bởi khi xác

lập và thực hiện hợp đồng, mong muốn thông thường của người bán là người mua thực

hiện hợp đồng để từ đó tìm kiếm các mục đích khác thông qua việc người mua thực

hiện hợp đồng. Vì vậy, dù có thiệt hại hay không có thiệt hại xảy ra, tòa án, trọng tài

cũng cần xem xét mức độ ảnh hưởng của hành vi vi phạm tới mục đích của việc giao

kết hợp đồng của các bên. Với những hành vi không thực hiện hợp đồng, việc xem xét

yếu tố thiệt hại để xác định có hay không có vi phạm cơ bản hợp đồng như quy định

tại khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại là không cần thiết mà chỉ nên xem xét đến thiệt

hại do hành vi này gây ra khi bên bị vi phạm muốn áp dụng thêm chế tài bồi thường

thiệt hại, ví dụ chi phí lưu kho đối với lô hàng và các chi phí đã chi khác.

(2) Tòa án đã đồng nhất vi phạm điều khoản cơ bản của hợp đồng với vi phạm

cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Quan điểm của Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng cũng

Page 142: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

137

có điểm tương đồng với quan điểm của tòa án và trọng tài của một số quốc gia thành

viên Công ước Viên khi cho rằng thời hạn giao hàng là một điều khoản cơ bản của hợp

đồng. Ở đây, tòa án đã coi vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng là vi phạm nghĩa vụ cơ

bản của hợp đồng, trong khi đó hai khái niệm này không giống nhau theo quy định của

pháp luật Việt Nam. Như đã phân tích Chương 2, cách hiểu này chỉ có thể phù hợp với

pháp luật của nước Anh, ở đó vi phạm cơ bản hợp đồng cũng chính là vi phạm điều

khoản cơ bản của hợp đồng.

Trong pháp luật thực định của Việt Nam, từ khi Bộ luật dân sự và Luật Thương

mại được ban hành, quy định về nội dung chủ yếu của hợp đồng dân sư nói chung, hợp

đồng thương mại nói riêng đã không còn hiệu lực, có nghĩa là không tồn tại quy định

về nội dung chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hóa. Bên cạnh đó, quy định về vi

phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng tại Khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại không đề cập

đến điều khoản cơ bản hay điều nội dung chủ yếu của hợp đồng mà một vi phạm bị coi

là cơ bản khi thỏa mãn 2 yếu tố xác định vi phạm cơ bản hợp đồng đã được nêu ở trên.

Như vậy, có thể nói, quyết định của Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng về việc áp

dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng căn cứ vào vi phạm điều khoản cơ bản – thời hạn giao

hàng là chưa phù hợp với quy định của Luật Thương mại hay nói cách khác là sự “mở

rộng phạm vi” khái niệm vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.

Từ nghiên cứu thực tiễn vận dụng quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng theo

Công ước Viên ở Chương 3 cho thấy, tòa án, trọng tài một số quốc gia thành viên của

Công ước Viên đều cho rằng thời hạn giao hàng chỉ được xem là yếu tố cần thiết, cơ

bản của hợp đồng khi các bên chỉ rõ điều này trong hợp đồng. Lúc đó, vi phạm thời

hạn giao hàng mới có thể bị coi là vi phạm cơ bản hợp đồng. Đối chiếu với tình tiết

nêu trong vụ tranh chấp thứ hai, sau 30 tháng kể từ ngày hết thời hạn giao hàng thì

người mua mới khởi kiện người bán để yêu cầu hủy bỏ hợp đồng. Hơn nữa, hàng hóa

nêu trong hợp đồng là tàu biển, không phải mặt hàng chịu ảnh hưởng nhiều nếu giao

hàng không đúng thời hạn. Vì thế, người viết cho rằng, cần có lý giải hợp lý cho việc

người bán không thực hiện nghĩa vụ giao tàu theo quy định của hợp đồng chứ không

phải căn cứ vào thời hạn giao tàu là điều khoản cơ bản của hợp đồng như Tòa án đã

lập luận.

5.1.2.2. Yếu tố mục đích của việc giao kết hợp đồng không rõ ràng

Mục đích của giao kết hợp đồng là điểm quan trọng cần làm rõ. Chỉ từ việc làm

rõ mục đích của giao kết hợp đồng là gì thì mới cho phép kiểm chứng thiệt hại do hành

Page 143: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

138

vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng gây ra trong mối tương quan với mục đích của giao kết

hợp đồng. Đạt hay không đạt mục đích của giao kết hợp đồng nên xác định như thế

nào? Mức độ đạt hay không đạt xác định ra sao?

Mục đích, theo nghĩa thông thường ở Việt Nam, là “cái vạch ra làm đích nhằm

đạt cho được”. Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, mục đích là “dự kiến trong ý thức

con người về kết quả nhằm đạt được bằng hoạt động của mình” [36, tr.356]. Như vậy,

về mặt thuật ngữ pháp lý, không có sự khác biệt giữa “những gì mong đợi” hay “kỳ

vọng” và “mục đích”.

Mục đích của việc giao kết hợp đồng là một trong những vấn đề pháp lý quan

trọng của pháp luật hợp đồng. Việc các bên thỏa thuận để ràng buộc quyền và nghĩa vụ

đối với nhau cũng vì những mục đích xác định, nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất,

tinh thần trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh hoặc sinh hoạt, tiêu dùng. Đây là

mục đích chung nhất của các loại hợp đồng. Mục đích giao kết hợp đồng thường được

thể hiện trong các điều khoản của hợp đồng, nhằm thể hiện những mục tiêu, mong

muốn cụ thể mà các bên muốn đạt được khi giao kết hợp đồng và mong muốn thực

hiện hợp đồng theo mục đích đó [68, tr.152].

Mục đích của việc giao kết hợp đồng của bên bị vi phạm nên được xem xét

dưới góc độ mục đích chung của loại hợp đồng (hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng,

hợp đồng thương mại nói chung) hay mục đích cụ thể của từng hợp đồng riêng lẻ (mục

đích của giao kết hợp đồng mua bán gạo khác với mục đích của giao kết hợp đồng

mua bán máy móc, thiết bị…). Mục đích của các bên cũng có thể được xem xét dựa

trên hợp đồng hay cả những mục đích ngoài hợp đồng [25, tr.186].

Pháp luật hợp đồng thực định của Việt Nam không có quy định cụ thể về mục

đích của việc giao kết hợp đồng là gì mà thay vào đó, mục đích của việc giao kết hợp

đồng cần được giải thích thông qua quy định về mục đích của giao dịch dân sự tại

Điều 123 Bộ luật dân sự, theo đó “mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp

mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó”. Khoản 2 Điều 6 Nghị

quyết 03/2012/NQ-HĐTP ngày 3/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân

tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định

chung” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung

một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự cũng nhấn mạnh rằng, “mục đích lợi nhuận

của cá nhân, tổ chức trong hoạt động kinh doanh, thương mại là mong muốn của cá

nhân đó thu được lợi nhuận…”.

Page 144: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

139

Khi các bên không có thỏa thuận rõ ràng về mục đích của hợp đồng, của việc

giao kết hợp đồng, căn cứ nguyên tắc giải thích hợp đồng dân sự đã được luật định tại

Điều 409 Bộ luật dân sự, mục đích của việc giao kết hợp đồng có thể được xác định

“không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí chung của

các bên” hoặc “giải thích theo nghĩa phù hợp nhất với tính chất của hợp đồng” hoặc

“tập quán tại địa điểm giao kết hợp đồng” đảm bảo “mối liên hệ với nhau” giữa các

điều khoản, sao cho ý nghĩa của các điều khoản đó phù hợp với toàn bộ nội dung hợp

đồng. Nếu ý chí chung của các bên mâu thuẫn với ngôn từ hợp đồng thì ý chí chung

của các bên được dùng để giải thích hợp đồng. Ví dụ, Công ty B đã có vài lần trao đổi

với Công ty A (là một doanh nghiệp cung cấp nước uống tinh khiết) về việc mua nước

uống. A đã đồng ý với các điều kiện mà B đưa ra và tiến hành giao hàng. Khi hàng

được chuyển đến, B không nhận hàng vì B cho rằng mình chỉ cần mua loại nước

khoáng không phải là nước tinh khiết. Cơ quan giải quyết tranh chấp hợp đồng cho

rằng, B phải nhận hàng hoặc bồi thường thiệt hại cho A vì ngôn từ trong hợp đồng mà

hai bên thỏa thuận trong hợp đồng không nói rõ là loại nước uống nào (nước tinh khiết

hay nước khoáng) [13].

Như vậy, việc xác định mục đích của việc giao kết hợp đồng của các bên tùy

thuộc rất nhiều vào các tình huống cụ thể, nhưng không loại trừ cả những mục đích

ngoài hợp đồng như mục đích từ thực tiễn thương mại được xác lập giữa các bên và

quyền quyết định thuộc về cơ quan tài phán khi giải thích hợp đồng được xác lập giữa

các bên. Điều này làm tăng “tính chủ quan” trong xác định vi phạm cơ bản hợp đồng

của cơ quan tài phán.

Thực tiễn áp dụng pháp luật về vi phạm cơ bản hợp đồng để chấp nhận yêu cầu

tuyên bố hủy bỏ hợp đồng của một bên đã cho thấy một số do mục đích của việc giao

kết hợp đồng của các bên không được quy định cụ thể dẫn đến tòa án bỏ qua yếu tố

này (như một số vụ án được viện dẫn ở phần trên) hoặc xác định yếu tố này dựa trên

“cảm tính”:

Vụ thứ 1 [176]: Ngày 1/11/2010, Nguyên đơn (Công ty Xian Hua International

Video&Audio Co.,Ltd) ký hợp đồng mua bán thương quyền bộ phim truyền hình

nhiều tập The Return East Heroes với Bị đơn (Công ty TNHH Truyền thông Tiến

Việt). Sau khi ký hợp đồng, Bị đơn đã chuyển cho Nguyên đơn 40% trị giá hợp đồng

đúng theo thỏa thuận tại khoản a, Điều 9 của hợp đồng. Tuy nhiên, Nguyên đơn đã

không thực hiện nghĩa vụ của mình thỏa thuận tại khoản b Điều 9 của hợp đồng là phải

chuyển cho bị đơn betacam, giấy phép đã được chứng thực sau khi nhận được 40% trị

Page 145: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

140

giá hợp đồng và theo thỏa thuận này thì chỉ sau khi hoàn tất việc nhập khẩu hàng

Nguyên đơn mới được nhận tiếp 60% trị giá hợp đồng còn lại. Tòa án nhân dân tối cao

Tp.HCM phán quyết rằng “Như vậy, Nguyên đơn mới là bên vi phạm hợp đồng. Việc

vi phạm hợp đồng nói trên của Nguyên đơn làm cho Bị đơn không đạt được mục đích

của hợp đồng là phát hành bộ phim đã thỏa thuận do không có giấy phép về bản

quyền cũng như không có bằng betacam để phát sóng”. Tòa án còn nhấn mạnh “Bị

đơn có quyền áp dụng chế tài đình chỉ hoặc hủy bỏ hợp đồng và đòi lại số tiền đã

chuyển cho Nguyên đơn theo quy định tại các Điều 310, 311, 312 và 314 của Luật

thương mại năm 2005”.

Vụ thứ 2 [177]: Công ty TNHH MTV TMDV Cường Thịnh Phát (Bên mua) và

Công ty Ms Farlin Commodities Pte Ltd (Bên bán) ký hợp đồng mua bán hàng hóa số

FARCOM/RCN/IVC/036/2011 ngày 07/06/2011, theo đó Bên mua mua hạt điều thô

nguồn góc Ivory Coast, số lượng 1000 tấn x 1,385,50 USD/tấn theo phương thức thanh

toán 98% L/C trả chậm trong vòng 90 ngày kể từ ngày giao hàng. Sau khi nhận hàng,

theo Điều 8 của hợp đồng, Bên mua đã kiểm tra lại chất lượng và khối lượng tại cảng

dỡ hàng là cảng Cát Lái Tp.Hồ Chí Minh với sự giám định của Vinacontrol thì phát

hiện hàng hóa của Bên bán không đảm bảo chất lượng. Hành vi giao hàng kém phẩm

chất của Bên bán đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho Bên mua vì lô hàng nhận về Bên

mua không sử dụng được, không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng là để

tái chế xuất khẩu nhân hạt điều đi nước ngoài nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Tòa lập luận

rằng: “việc Bên bán giao hàng kém phẩm chất và không chịu khắc phục sửa chữa theo

khiếu nại của Bên mua làm cho Bên mua bị thiệt hại nghiêm trọng, hàng không sử

dụng được nên Bên mua không đạt được mục đích của hợp đồng do đó có cơ sở cho

rằng Bên bán đã vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng theo khoản 13 Điều 3 Luật

thương mại” và tuyên xử “Hủy bỏ hợp đồng FARCOM/RCN/IVC/036/2011 ngày

07/06/2011”.

Từ những phân tích trên có thể rút ra một số nhận xét sau:

(1) Tòa án nhân dân tối cao Tp.HCM trong vụ thứ 1 đã không xem xét các yếu

tố cấu thành vi phạm cơ bản quy định tại khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại, tức là

xem xét từ thiệt hại cho đến mục đích của việc giao kết hợp đồng mà thay vào đó Tòa

án nhân dân tối cao Tp.HCM chỉ xem xét đến mục đích của hợp đồng là “phát hành bộ

phim đã thỏa thuận”. Tuy nhiên, trong vụ thứ 2, dường như, tòa án cho rằng vi phạm

của bị đơn làm cho hàng không sử dụng được nên Bên mua không đạt được mục đích

Page 146: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

141

của hợp đồng, tức là tòa án đã chấp nhận lập luận của Nguyên đơn cho rằng, mục đích

của việc giao kết hợp đồng là “để tái chế xuất khẩu nhân hạt điều đi nước ngoài nhằm

tìm kiếm lợi nhuận”. Cách lý giải của tòa án trong 2 vụ việc nêu trên chưa thực sự

thuyết phục bởi lẽ: (i) Việc lý giải các bên giao kết hợp đồng nhằm mục đích gì trước

hết phải dựa vào ngôn từ của hợp đồng, trừ khi dựa vào ngôn từ hợp đồng mà tòa án

vẫn không thể xác định được mục đích của việc giao kết hợp đồng của các bên thì tòa

án mới dựa vào các tình huống có liên quan, những cuộc đàm phán, tập quán và thói

quen được xác lập giữa các bên. Đây cũng là cách xử lý phổ biến của tòa án, trọng tài

của một số quốc gia thành viên Công ước Viên. (ii) Tòa án chỉ dựa vào quan điểm của

bên bị vi phạm về mục đích của giao kết hợp đồng bị ảnh hưởng bởi hành vi vi phạm

của bên vi phạm mà không tính tới khả năng lường trước được sự ảnh hưởng tới mục

đích của giao kết hợp đồng của bên vi phạm. Vì thế, quan điểm của tòa án mang nặng

cảm tính, thiếu khách quan.

(2) Thuật ngữ “mục đích cùa giao kết hợp đồng” được quy định để xác định vi

phạm cơ bản hợp đồng mà mục đích của giao kết hợp đồng thường không thể hiện qua

ngôn từ hợp đồng, thậm chí dễ dàng thay đổi nếu bên bị vi phạm thấy cần thiết cho

việc bảo vệ quyền lợi của mình.

Về mặt bản chất pháp lý, mục đích của giao kết hợp đồng thường gắn liền với

mong muốn, kỳ vọng của chủ thể từ hợp đồng, từ việc xác lập giao dịch. Chẳng hạn,

người mua mong muốn mua hàng để bán lại cho người mua trong nội địa (khách hàng,

người tiêu dùng) nên mục đích của việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là để bán

lại hoặc sử dụng hàng mua được cho mục đích cụ thể nào đó. Thực tiễn vụ thứ 2 cho

thấy, Tòa án đã có phần mở rộng thuật ngữ vi phạm cơ bản bằng việc dùng “mục đích

của hợp đồng” là “phát hành bộ phim đã thỏa thuận” thay cho “mục đích của việc giao

kết hợp đồng”.

Các bên giao kết hợp đồng có thể vì nhiều mục đích khác nhau, mục đích này

có thể được các bên nêu rõ trong hợp đồng nhưng cũng có thể không được đề cập rõ

ràng trong hợp đồng. Mục đích của hợp đồng, theo người viết, chẳng qua chỉ là cách

thể hiện khác của mục đích của việc giao kết hợp đồng bởi hợp đồng với ý nghĩa là

một hình thức giao dịch dân sự thì bản thân nó không có “mục đích tự thân” mà mục

đích của hợp đồng được biểu hiện thông qua mục đích của các bên giao kết hợp đồng.

Tuy nhiên, tương tự các vụ tranh chấp ở trên, Tòa án nhân dân tối cao Tp.HCM cũng

Page 147: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

142

suy đoán dựa trên “cảm tính” về mục đích của việc giao kết hợp đồng bởi quy định

“mua bán thương quyền bộ phim truyền hình nhiều tập The Return East Heroes” chưa

đủ cơ sở để kết luận rằng mục đích của hợp đồng là phát hành bộ phim này. Việc mua

thương quyền bộ phim truyền hình có thể nhằm nhiều mục đích khác nhau như: để

phát hành, để bán lại quyền phát hành. Như vậy, phát hành bộ phim chỉ có thể là một

trong số các mục đích mà một trong các bên hướng tới khi xác lập giao dịch này. Tòa

án nhân dân tối cao Tp.HCM cũng không lý giải và đưa ra căn cứ rõ ràng cho kết luận

mục đích của hợp đồng là “phát hành bộ phim” để từ đó tuyên phán quyết nguyên đơn

là bên vi phạm hợp đồng và bị đơn có quyền áp dụng chế tài đình chỉ hợp đồng hoặc

hủy bỏ hợp đồng theo quy định tại Điều 310 và Điều 312 Luật Thương mại. Đáng chú

ý hơn, Tòa án nhân dân tối cao Tp.HCM cũng không lý giải rõ ràng mức độ không đạt

được mục đích của việc giao kết hợp đồng (“phát hành bộ phim”), tức là hoàn toàn

không đạt được mục đích này hay không đạt được một phần. Chính vì thế, khó có thể

thấy được mức độ tác động, mức độ ảnh hưởng của vi phạm hợp đồng đối với mục

đích của việc giao kết hợp đồng.

Tóm lại, trong các vụ tranh chấp ở trên, tòa án đều kết luận hoặc chấp nhận yêu

cầu hủy bỏ toàn bộ hoặc một phần hợp đồng giữa các bên. Tuy nhiên, vấn đề bất cập

mà chưa được tòa án đưa ra trong phán quyết của mình là tòa án đã kết luận hoặc chấp

nhận các yêu cầu hủy bỏ hợp đồng dựa trên cơ sở nào? Các kết luận của Tòa án chấp

nhận yêu cầu hủy bỏ hợp đồng của người mua hay người bán vẫn dựa trên “cảm tính”,

tâm lý chủ quan khá nhiều trong khi đó nếu so sánh với tòa àn và trọng tài một số quốc

gia thành viên Công ước khi giải quyết tranh chấp về hợp đồng MBHHQT có liên

quan đến vi phạm cơ bản, họ lại nghiêng về các yếu tố về mặt khách quan như khả

năng bán lại, khả năng sử dụng, tỷ lệ hàng hóa không phù hợp,…tức là tập trung trực

tiếp vào lợi ích của bên bị vi phạm. Điều này có thể dẫn tới hậu quả pháp lý mà bên vi

phạm phải gánh chịu khác nhau khi áp dụng quy định về vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp

đồng trong thực tiễn.

Bên cạnh đó, từ quy định tại khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại có thể hiểu

rằng, thời điểm xác định mục đích là thời điểm giao kết hợp đồng. Như vậy, phải

chăng pháp luật không cho phép các bên thay đổi mục đích trong quá trình thực hiện

hợp đồng. Chẳng hạn, người bán và người mua giao kết hợp đồng mua bán giấy lề

catton để sản xuất thành phẩm. Nếu xét về mặt ngôn từ thì mục đích của giao kết hợp

đồng của người bán ở đây là nhận được tiền, còn người mua là nhận được hàng nhằm

Page 148: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

143

sử dụng nó cho mục đích sản xuất ra thành phẩm. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện

hợp đồng, vì lý do khách quan, người mua không tiếp tục sản xuất nữa mà quyết định

bán lại cho người mua khác để người mua này sử dụng làm vật liệu chèn lót. Như vậy,

nếu người bán giao hàng kém phẩm chất cho người mua, hàng kém phẩm chất vẫn sử

dụng để sản xuất được nhưng không phù hợp để bán lại. Lúc này, có thể có 2 kết luận:

(i) Mục đích của việc giao kết hợp đồng của người mua không đạt được vì hàng giao

kém phẩm chất và người mua không thể sử dụng để sản xuất được (hay tái chế để xuất

khẩu như lập luận của người mua trong vụ thứ 2); (ii) Mục đích bán lại hàng của người

mua vẫn đảm bảo. Vấn đề xác định mục đích của việc giao kết hợp đồng càng trở nên

khó khăn hơn với hợp đồng cung ứng dịch vụ khi mà các bên không thỏa thuận rõ ràng

nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ là nghĩa vụ theo kết quả công việc hay nghĩa vụ

theo nỗ lực và khả năng cao nhất. Với sự biến động liên tục của hoạt động thương mại

nhằm mục đích sinh lợi thì khả năng thay đổi mục đích của các bên hợp đồng là rất có

thể. Đối với các hợp đồng thương mại, vì môi trường kinh doanh biến thiên liên tục,

các bên cần phản ứng linh hoạt – ý chí vào thời điểm giao kết cũng không thể bất biến.

5.1.3. Bất cập trong quy định và thực tiễn áp dụng chế tài do vi phạm cơ bản

hợp đồng

Khi có hành vi vi phạm cơ bản hợp đồng, bên vi phạm phải gánh chịu hậu quả

bất lợi, đó là việc bên vi phạm có thể bị áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện, đình chỉ

thực hiện hay hủy bỏ hợp đồng. Đây là các chế tài giống nhau về điều kiện áp dụng

theo hướng trao cho các bên xác lập và thực hiện hợp đồng quyền tự do thỏa thuận về

việc áp dụng các chế tài này. Nếu các bên không có thỏa thuận về điều kiện để tạm

ngừng thực hiện, đình chỉ thực hiện hay hủy bỏ hợp đồng thì hợp đồng chỉ có thể bị

tạm ngừng thực hiện, bị đình chỉ thực hiện hoặc hủy bỏ khi một bên có vi phạm cơ bản

nghĩa vụ hợp đồng.

Tuy nhiên, ba chế tài nói trên có sự khác biệt cơ bản về hậu quả pháp lý, cụ thể:

Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn có hiệu lực nhưng khi hợp

đồng bị đình chỉ thực hiện hoặc hủy bỏ thì hợp đồng không còn hiệu lực (chấm dứt) từ

thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ (đối với đình chỉ thực hiện hợp đồng)

hoặc hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết (đối với hủy bỏ hợp đồng) và

các bên không phải tiếp tục thực hiện hợp đồng. Khi áp dụng các chế tài nói trên, bên

bị vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu có).

Page 149: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

144

Luật Thương mại tuy quy định hệ quả pháp lý do vi phạm cơ bản hợp đồng

rộng hơn Công ước Viên ở chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng và đình chỉ thực hiện

hợp đồng nhưng đều có điểm chung với Công ước Viên là căn cứ áp dụng các chế tài

nói trên đều dựa vào vi phạm cơ bản hợp đồng (vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng).

Ngoài ra, Công ước Viên lại khác Luật thương mại khi quy định bên bị vi phạm có

quyền yêu cầu bên vi phạm giao hàng thay thế [40, Điều 297] như một chế tài buộc

thực hiện đúng hợp đồng. Từ kết quả nghiên cứu Công ước Viên cho thấy, quy định

của Luật Thương mại về các chế tài nói trên còn một số bất cập, cụ thể:

5.1.3.1. Quy định tại Điều 293 là thừa, không cần thiết

Luật Thương mại phân biệt vi phạm cơ bản và vi phạm không cơ bản bằng quy

định tại Điều 293, theo đó trừ khi các bên có thỏa thuận khác, bên bị vi phạm không

được áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và

hủy bỏ hợp đồng đối với vi phạm không cơ bản.

Tuy nhiên, quy định như trên là thừa và không cần thiết bởi lẽ Điều 308, 310 và

312 đã quy định: trừ trường hợp miễn trách nhiệm hoặc xảy ra hành vi vi phạm mà các

bên đã thỏa thuận là điều kiện tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp

đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng, bên bị vi phạm chỉ được áp dụng các chế tài này khi bên

kia vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Điều này có nghĩa là, các chế tài tạm ngừng

thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng sẽ không được

áp dụng với những vi phạm không cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.

Quy định thừa và không cần thiết này dễ dẫn đến rối rắm, lung túng khi áp dụng

quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng. Nếu các bên có thỏa thuận về việc áp dụng các

chế tài nói trên thì không cần phải xác định có hay không có vi phạm cơ bản mà chỉ

cần xác định bên vi phạm vi phạm thỏa thuận nào của các bên làm cơ sở áp dụng các

chế tài nói trên. Nhưng nếu các bên không có thỏa thuận cụ thể thì đương nhiên quy

định tại khoản 2 Điều 308, khoản 2 Điều 310 và khoản 4 Điều 312 sẽ được áp dụng

mà không cần dẫn chiếu tới Điều 293.

5.1.3.2. Quyền thay thế hàng hóa quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 297 là

chưa hợp lý

Giao hàng thay thế là một trong những nội dung của chế tài buộc thực hiện

đúng hợp đồng trong trường hợp có hành vi vi phạm hợp đồng. Đây là biện pháp mà

bên bị vi phạm sử dụng để yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng để hợp đồng

Page 150: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

145

được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Như vậy, bản chất pháp lý

của quyền thay thế hàng hóa là tiếp tục duy trì quan hệ hợp đồng của các bên, đảm bảo

mục tiêu hợp đồng được giao kết không phải để bị hủy bỏ.

Tuy nhiên, Điều 297 về buộc thực hiện đúng hợp đồng lại quy định quyền thay

thế hàng hóa bao gồm cả việc thay thế do chính bên vi phạm thực hiện và do chính bên

bị vi phạm thực hiện thông qua giao dịch với chủ thể khác là chưa thực sự hợp lý, cụ

thể:

(i) Đối với việc thay thế do chính bên vi phạm thực hiện (bên không thực hiện

đúng hợp đồng)

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu một bên không thực hiện đúng hợp

đồng như bên bán giao hàng kém chất lượng thì bên bán, theo yêu cầu của bên mua, có

thể loại trừ khuyết tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác của bên

bán để thay thế [40, khoản 2 Điều 297]. Quyền yêu cầu giao hàng thay thế, lúc này,

thuộc nội dung của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng.

Tuy nhiên, hệ quả pháp lý mà bên vi phạm phải gánh chịu do vi phạm hợp đồng

dẫn đến bị buộc thực hiện đúng hợp đồng cũng rất nặng nề bởi bên vi phạm phải chịu

chi phí phát sinh, đặc biệt là khi phải giao hàng thay thế. Mọi chi phí vận chuyển hàng

hóa ban đầu từ địa điểm của người mua về địa điểm của người bán và từ địa điểm của

người bán đến địa điểm của người mua (đối với lô hàng thay thế) sẽ do người bán

chịu. Trong khi đó, Luật Thương mại lại chỉ cho phép áp dụng chế tài buộc thực hiện

đúng hợp đồng bằng cách yêu cầu giao hàng thay thế đối với vi phạm không cơ bản –

giao hàng, cung ứng dịch vụ kém chất lượng [40, Điều 293].

Như vậy, kết hợp với Điều 293, nếu các bên không có thỏa thuận khác thì hàng

hóa, dịch vụ kém chất lượng bị yêu cầu giao hàng thay thế phải đảm bảo không thỏa

mãn các yếu tố cấu thành vi phạm cơ bản quy định tại khoản 13 Điều 3 Luật Thương

mại. Nếu hàng hóa, dịch vụ kém chất lượng cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng thì

dẫn tới hệ quả pháp lý hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện, đình chỉ thực hiện hoặc hủy

bỏ mặc dù các bên không có ý định triệt tiêu hiệu lực hợp đồng bằng các chế tài này.

Quy định như khoản 1 Điều 297 hiện nay dễ dẫn đến tùy tiện của bên bị vi phạm trong

việc yêu cầu bên vi phạm giao hàng thay thế và gánh chịu chi phí bởi chỉ với vi phạm

nhỏ nhất (hàng kém phẩm chất dù rất ít) cũng dẫn đến hệ quả pháp lý là phải giao hàng

thay thế. Về mặt kinh tế, lúc này, bên vi phạm sẽ gánh chịu hậu quả rất nặng nề do

Page 151: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

146

việc giao hàng thay thế. Bên cạnh đó, việc sử dụng các thuật ngữ mang tính diễn giải

cho chất lượng của hàng hóa, dịch vụ không phù hợp với hợp đồng như “khiếm

khuyết”, “khuyết tật”, “thiếu sót” càng làm tăng thêm sự bất hợp lý của điều luật này

và sự rối rắm trong diễn đạt.

Cơ chế pháp luật điều chỉnh vi phạm cơ bản hợp đồng, một mặt, để bảo vệ hiệu

lực của hợp đồng, mặt khác, tránh sự tùy tiện chấm dứt hiệu lực hợp đồng của các bên.

Vì vậy, quy định như hiện nay tại Điều 297 vừa thể hiện sự không hợp lý trong việc

duy trì hiệu lực của hợp đồng mà có nguy cơ tạo nên sự tùy tiện trong việc thực hiện

quyền yêu cầu giao hàng thay thế, vừa không tương thích với Công ước Viên – văn

bản pháp luật quốc tế mà Chính phủ đã đồng ý chủ trương gia nhập. Quy định về yêu

cầu giao hàng thay thế như hiện nay của Luật Thương mại là quá rộng, dễ tạo “lạm

dụng” cho bên bị vi phạm khi hàng hóa được giao có chất lượng không phù hợp với

hợp đồng dù là rất nhỏ. Bên cạnh chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, người mua

luôn có quyền đòi bồi thường thiệt hại nếu nhận hàng có chất lượng không phù hợp, vì

vậy quyền yêu cầu giao hàng thay thế chỉ nên được trao cho người mua khi hàng hóa

được giao có chất lượng không phù hợp với hợp đồng cấu thành vi phạm cơ bản hợp

đồng. Nói cách khác, người mua muốn yêu cầu giao lại hàng phải là người chịu thiệt

hại đến mức bị tước đi đáng kể mục đích hay kỳ vọng từ hợp đồng.

Bên cạnh việc trao quyền yêu cầu giao hàng thay thế cho bên vi phạm với

những vi phạm rất nhỏ, Luật Thương mại lại không có quy định nào bảo vệ quyền lợi

của người bán khi bị áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là không hợp lý.

Chẳng hạn, khi người bán giao hàng có chất lượng không phù hợp với hợp đồng và

người mua áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng bằng cách yêu cầu giao hàng

thay thế nhưng người mua lại không thể hoàn trả lại hàng hóa như nguyên trạng ban

đầu cho người bán thì quyền lợi của người bán sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều. Chính vì thế,

cần có giải pháp pháp lý để bảo vệ quyền lợi cho người bán hay nói cách khác là hậu

quả pháp lý của buộc thực hiện đúng hợp đồng.

(ii) Đối với việc thay thế do chính bên bị vi phạm thực hiện (bên không được

thực hiện đúng hợp đồng)

Khoản 3 Điều 297 cho phép bên bị vi phạm có quyền mua hàng, nhận cung ứng

dịch vụ của người khác để thay thế theo đúng loại hàng hóa, dịch vụ ghi trong hợp

đồng và bên vi phạm phải trả khoản tiền chênh lệch và các chi phí liên quan nếu có.

Page 152: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

147

Như vậy, khi bên bị vi phạm mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ từ bên thứ ba là bên bị

vi phạm đã xác lập quan hệ hợp đồng khác thay thế quan hệ hợp đồng với bên vi

phạm. Điều này, xét về mặt bản chất pháp lý, là hợp đồng giữa bên vi phạm và bên bị

vi phạm bị hủy bỏ một phần (thay thế một phần) hoặc toàn bộ (thay thế toàn bộ), đi

ngược với chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng.

Ở đây, những gì bên bị vi phạm nhận được từ việc mua hàng, nhận cung ứng

dịch vụ không phài từ bên vi phạm (bên có nghĩa vụ), do đó, không thể là nội dung của

chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng và việc đặt quy định này tại khoản 3 Điều 297

về buộc thực hiện đúng hợp đồng là điều bất hợp lý cần phải khắc phục. Nếu chấp

nhận việc thay thế thì buộc phải xác định hợp đồng bị thay thế đã chấm dứt hoặc hủy

bỏ nhưng chấp nhận việc thay thế cũng đồng nghĩa với việc buộc các bên tiếp tục thực

hiện đúng hợp đồng theo Điều 297 trong khi đó đây là hai chế tài không đồng hành

cùng nhau (không thể vừa buộc tiếp tục thực hiện hợp đồng vừa đình chỉ hay hủy bỏ

hợp đồng theo khoản 1 Điều 299 Luật Thương mại).

5.1.3.3. Quyền khắc phục vi phạm cơ bản hợp đồng của bên vi phạm chưa được

bảo đảm

Trong giao dịch dân sự nói chung, hoạt động thương mại nói riêng, các bên đều

bị chi phối bởi nguyên tắc thiện chí trong kinh doanh. Tức là, trong quá trình thực hiện

hợp đồng, các bên có những biện pháp tương hỗ cho nhau để cùng thực hiện tốt hợp

đồng. Chẳng hạn, hết thời hạn giao hàng nhưng người bán chưa giao hàng thì người

mua có thể gia hạn thêm thời gian để người bán có thể giao hàng hoặc nếu người bán

giao hàng không phù hợp với hợp đồng, người mua có thể cho phép người bán một

khoảng thời gian để khắc phục sự không phù hợp đó với chi phí của người bán. Vì

vậy, dù là khi một bên vi phạm cơ bản hợp đồng, chế tài hủy bỏ hay đình chỉ thực hiện

hợp đồng chỉ nên được phép áp dụng khi bên vi phạm không khắc phục được hoặc

khắc phục nhưng gây tổn hại cho bên bị vi phạm.

Quyền khắc phục vi phạm của bên vi phạm cũng đã được công nhận trong Luật

Thương mại nhưng là quyền khắc phục với vi phạm không cơ bản khi chưa hết thời

hạn thực hiện hợp đồng. Chẳng hạn, Điều 41 Luật Thương mại quy định cho phép

người bán khắc phục trong trường hợp giao thiếu hàng, giao hàng không phù hợp với

hợp đồng trước khi hết thời hạn giao hàng, khắc phục thiếu sót của các chứng từ trong

thời hạn còn lại nếu giao chứng từ trước thời hạn thỏa thuận. Người mua có quyền tạm

Page 153: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

148

ngừng thanh toán tiền mua hàng cho đến khi người bán đã khắc phục sự không phù

hợp của hàng hóa nếu người mua có bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng không

phù hợp với hợp đồng [40, Điều 51].

Người viết cho rằng, quyền yêu cầu khắc phục vi phạm đúng nhất nên được

hiểu là một dạng tổng quát hơn của quyền yêu cầu thực hiện hợp đồng. Theo Luật

thương mại, quyền khắc phục vi phạm cũng được quy định trong chế tài buộc thực

hiện đúng hợp đồng thể hiện ở nội dung: giao đủ hàng (đối với giao thiếu hàng), loại

trừ khuyết tật hoặc giao hàng khác thay thế (đối với giao hàng kém chất lượng) trong

thời hạn do bên bị vi phạm ấn định nhưng các hành vi vi phạm như giao thiếu hàng

hoặc giao hàng kém chất lượng không cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng. Bởi vì, nếu

đó là vi phạm cơ bản thì chế tài được sử dụng sẽ là tạm ngừng thực hiện hợp đồng,

đình chỉ thực hiện hoặc hủy bỏ hợp đồng. Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng

không được áp dụng cùng với các chế tài nói trên.

Quyền khắc phục của người bán đối với giao thiếu hàng và giao hàng kém chất

lượng là chưa bao quát hết các trường hợp hàng hóa không phù hợp với hợp đồng quy

định tại Điều 39, theo đó sự không phù hợp của hàng hóa có thể về số lượng, về chất

lượng hoặc về bao bì, đóng gói. Ngoài ra, khoản 2 Điều 39 Luật Thương mại quy định

“người mua có quyền từ chối nhận hàng nếu hàng hóa không phù hợp với hợp đồng”

mâu thuẫn với quy định tại Điều 56 “người mua có nghĩa vụ nhận hàng”.

Hợp đồng được giao kết không phải để hủy bỏ mà để các bên tôn trọng và thực

hiện. Chấm dứt hiệu lực hợp đồng là giải pháp cuối cùng khi các bên đã nỗ lực duy trì

hợp đồng. Vì vậy, các bên xác lập và thực hiện hợp đồng cần có quyền lựa chọn giữa

việc áp dụng tạm ngừng, đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng hoặc tiếp tục duy trì hợp đồng.

Với ý nghĩa đó, rõ ràng, Luật Thương mại chưa tính đến việc cho phép một bên khắc

phục vi phạm nếu trong trường hợp vi phạm của một bên gây thiệt hại cho bên kia

hoặc làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng. Nói cách

khác, quyền khắc phục vi phạm như sửa chữa hoặc thay thế hàng hóa của người bán

với chi phí của người bán cần được ghi nhận như là một yếu tố để xác định tính cơ bản

của vi phạm hợp đồng.

Người viết cho rằng, vì hậu quả pháp lý của vi phạm cơ bản hợp đồng là rất

nặng nề, hợp đồng bị chấm dứt và quyền lợi của các bên xác lập, thực hiện hợp đồng

sẽ bị ảnh hưởng rất lớn. Vì vậy, với mục đích đảm bảo tính bền vững của hợp đồng

Page 154: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

149

thương mại, các bên càng tuân thủ đúng hợp đồng thì càng có lợi cho xã hội, khi xem

xét hành vi vi phạm hợp đồng có phải là vi phạm cơ bản không thì cần xem xét cả

quyền khắc phục vi phạm của người bán, tức là việc bên vi phạm có sẵn sàng khắc

phục hoặc có khả năng khắc phục vi phạm hay không, để từ đó xem xét, đối chiếu sự

ảnh hưởng của vi phạm, của sự khắc phục vi phạm với mục đích của việc giao kết hợp

đồng của bên bị vi phạm.

5.1.3.4. Chưa có sự tương thích giữa Điều 51 với Điều 308

Theo Điều 308 Luật Thương mại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một

bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng. Nếu các bên không có thỏa

thuận về điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng thì hợp đồng bị tạm ngừng thực

hiện khi một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Tuy nhiên, quy định tại Điều 51

của Luật Thương mại thể hiện sự không tương tích với quy định về tạm ngừng thực

hiện hợp đồng dựa trên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Điều 51 Luật Thương mại

quy định người mua được quyền tạm ngừng thanh toán tiền mua hàng nếu có bằng

chứng: (i) người bán lừa dối; (ii) hàng hóa đang là đối tượng bị tranh chấp; (iii) người

bán đã giao hàng không phù hợp với hợp đồng. Người bán chỉ cần vi phạm nghĩa vụ

bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa (tức là hàng hóa là đối tượng bị tranh

chấp) hoặc giao hàng không phù hợp với hợp đồng, tức là vi phạm có thể cơ bản hoặc

không cơ bản, thì người mua có quyền tạm ngừng thực hiện hợp đồng.

Tạm ngừng thanh toán tiền hàng, về mặt bản chất, là tạm thời không thực hiện

hợp đồng trong một thời hạn nhất định, đó là cho đến khi tranh chấp được giải quyết

hoặc bên bán đã khắc phục sự không phù hợp của hàng hóa, của dịch vụ theo đúng quy

định hợp đồng. Vì vậy, cần phải được ghi nhận như một chế tài trong thương mại. Quy

định về tạm ngừng thanh toán tiền mua hàng được đặt ở mục quyền và nghĩa vụ của

người bán và người mua, không phải là chế tài áp dụng trong thương mại là chưa hợp

lý.

Ngoài ra, lừa dối là điều kiện hiệu lực của giao dịch hợp đồng nên việc sắp xếp

lừa dối là căn cứ để tạm ngừng thanh toán tiền mua hàng tạo nên sự không thống nhất

với quy định của Bộ luật dân sự, theo đó khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị

lừa dối thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu (Điều 133

Bộ luật dân sự). Luật Thương mại cũng không quy định thời hạn tạm ngừng thanh toán

khi bên kia lừa dối và xử lý hậu quả pháp lý của hành vi lừa dối trong giao dịch. Từ

Page 155: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

150

đó, người viết cho rằng, không nên sử dụng “lừa dối” làm căn cứ để tạm ngừng thực

hiện thanh toán tiền mua hàng.

Chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng là chế tài được áp dụng trong thương

mại, có nghĩa là áp dụng cho các loại hợp đồng thương mại mà trong đó quy định về

mua bán hàng hóa và MBHHQT chỉ là phần rất nhỏ. Nếu xem quy định về việc tạm

ngừng thanh toán của người bán thì vô hình chung Luật Thương mại công nhận vi

phạm nghĩa vụ đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa, vi phạm nghĩa vụ giao

hàng phù hợp với hợp đồng là vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng mặc dù có thể không

gây thiệt hại đến mức làm bên kia mất đi mục đích của việc giao kết hợp đồng.

5.1.4. Căn cứ hủy bỏ hợp đồng do vi phạm cơ bản hợp đồng là quá rộng

Như đã phân tích ở các chương trước, hủy bỏ hợp đồng là chế tài mang lại hậu

quả pháp lý nặng nề nhất, là hình thức chấm dứt hiệu lực hợp đồng có hiệu lực hồi tố

(hợp đồng không có hiệu lực kể từ thời điểm ký kết). Vì vậy, để đảm bảo an toàn pháp

lý cho giao dịch của các bên, an toàn hợp đồng nhằm tránh tình trạng hợp đồng bị hủy

bỏ một cách tùy tiện, ảnh hưởng nguyên tắc tuân thủ hợp đồng, Luật Thương mại quy

định người bán hoặc người mua chỉ có thể hủy bỏ hợp đồng khi một bên vi phạm cơ

bản nghĩa vụ hợp đồng khi các bên không có thỏa thuận về điều kiện hủy bỏ hợp đồng.

Tuy nhiên, từ nghiên cứu quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng Công ước Viên và

thực tiễn vận dụng quy định này của tòa án, trọng tài một số quốc gia thành viên của

Công ước cho thấy quy định về hủy bỏ hợp đồng khi có vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp

đồng theo Luật Tthương mại là quá rộng.

Khoản 12 Điều 3 Luật Thương mại định nghĩa “vi phạm hợp đồng” là việc một

bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ và thực hiện không đúng nghĩa vụ theo

thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này. Vì thế, bất kỳ hành vi không

thực hiện hay thực hiện không đúng nào của bên vi phạm mà gây thiệt hại đến mức

làm cho bên bị vi phạm không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng thì đều

có thể cấu thành vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Như vậy là quá rộng và tòa án,

trọng tài sẽ luôn phải xem xét có hay không có hành vi vi phạm cơ bản hợp đồng dù là

vi phạm hợp đồng của người bán hoặc người mua là rất không đáng kể, ví dụ giao

thiếu một ít hàng.

Thực tiễn nghiên cứu Công ước Viên cho thấy, tòa án, trọng tài chủ yếu xem

xét vi phạm cơ bản hợp đồng khi người bán hoặc người mua không thực hiện hợp

Page 156: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

151

đồng hoặc người bán giao hàng không phù hợp với hợp đồng. Đây là những vi phạm

mà có khả năng ảnh hưởng lớn nhất đến quyền lợi của bên kia, trực tiếp tác động đến

kỳ vọng từ hợp đồng của bên kia. Ngoài ra, Công ước cũng chỉ chấp nhận yêu cầu

tuyên bố hủy hợp đồng của một bên nếu bên kia không thực hiện hợp đồng hoặc tuyên

bố không thực hiện hợp đồng trong thời hạn gia hạn thêm.

Người viết ủng hộ cách quy định của Công ước Viên bởi lẽ phải là những vi

phạm có ảnh hưởng rõ ràng, đáng kể đến những gì được kỳ vọng từ hợp đồng, mục

đích của các bên thì mới nên xem xét đến tính cơ bản của vi phạm hợp đồng đó. Luật

Thương mại cũng đã quy định cho phép bên bị vi phạm có thể gia hạn thêm một thời

gian hợp lý để bên bi phạm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng [40, Điều 298], nếu hết thời

hạn gia hạn thêm đó mà bên vi phạm không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng hoặc tiếp tục

thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng thì lúc đó bên kia cũng có quyền áp dụng các

chế tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình [40, Điều 299]. Tuy nhiên, nếu

áp dụng một trong ba chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp

đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng thì vẫn phải tuân thủ điều kiện áp dụng chế tài này. Như

vậy, nếu bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng thì cũng

chưa thể kết luận bên vi phạm vi phạm cơ bản hợp đồng được.

Quy định về căn cứ hủy bỏ hợp đồng như trên cũng dẫn đến không phù hợp với

quyền tuyên bố hủy bỏ hợp đồng của người mua đối với hợp đồng giao hàng từng

phần tại Điều 313 Luật Thương mại. Điều 313 Luật Thương mại quy định như sau: “1.

Trường hợp có thoả thuận về giao hàng, cung ứng dịch vụ từng phần, nếu một bên

không thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc giao hàng, cung ứng dịch vụ và việc này

cấu thành một vi phạm cơ bản đối với lần giao hàng, cung ứng dịch vụ đó thì bên kia

có quyền tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng đối với lần giao hàng, cung ứng dịch vụ. 2.

Trường hợp một bên không thực hiện nghĩa vụ đối với một lần giao hàng, cung ứng

dịch vụ là cơ sở để bên kia kết luận rằng vi phạm cơ bản sẽ xảy ra đối với những lần

giao hàng, cung ứng dịch vụ sau đó thì bên bị vi phạm có quyền tuyên bố huỷ bỏ hợp

đồng đối với những lần giao hàng, cung ứng dịch vụ sau đó, với điều kiện là bên đó

phải thực hiện quyền này trong thời gian hợp lý”. Với quy định này, vi phạm cơ bản

nghĩa vụ hợp đồng chỉ được xem xét khi nào không thực hiện nghĩa vụ trong trường

hợp các bên thỏa thuận giao hàng từng phần. Nếu các bên thỏa thuận về giao hàng

từng phần nhưng trong chuyên hàng đầu tiên bên bán giao hàng không phù hợp với

Page 157: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

152

hợp đồng nhưng phần không phù hợp đó là phần quan trọng của cả lô hàng thì bên

mua không đủ cơ sở viện dẫn vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng để áp dụng chế tài

hủy bỏ hợp đồng đối với lần giao hàng đầu tiên, bởi vì bên bán vẫn thực hiện hợp đồng

chứ không phải không thực hiện.

5.1.5. Chưa quy định hủy bỏ hợp đồng khi có vi phạm cơ bản hợp đồng dự

đoán trước

Quy định về căn cứ hủy bỏ hợp đồng hiện nay trong Luật Thương mại chỉ có

thể áp dụng để hủy bỏ hợp đồng khi hết hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng – vi phạm

thực tế đã tồn tại, đã xảy ra nhưng không áp dụng đối với vi phạm trước khi đến hạn

thực hiện hợp đồng hay vi phạm tiên liệu trước.

Ví dụ: Theo hợp đồng ký kết ngày 01/6, A phải cung cấp cho B một lượng hàng

C vào ngày 30/6. Rất có thể vào ngày 15/6, B biết chắc rằng đến ngày 30/6, A sẽ

không thực hiện hợp đồng. Chẳng hạn, cho đến ngày 15/6, B được A thông báo hai lần

rằng A không muốn thực hiện hợp đồng nữa hoặc, ngày 15, B được biết rằng A đã bán

và giao toàn bộ tài sản C cho người khác. Ở đây, đến ngày 15/6, tức là trước ngày hết

thời hạn mà bên A phải thực hiện hợp đồng, B biết chắc là đến ngày 30/6 hợp đồng sẽ

không được thực hiện. Vấn đề đặt ra là B có quyền được hủy hợp đồng vào ngay ngày

15/6 hay không ?

Trong phần liên quan đến hợp đồng, chúng ta không thấy Luật Thương mại cho

phép một bên hủy bỏ hợp đồng trước khi hết thời hạn thực hiện khi thấy rõ bên kia sẽ

vi phạm hợp đồng. Đây là một lạc hậu so với pháp luật một số nước và một số văn bản

quốc tế hiện đại. Ở Anh, vấn đề vi phạm hợp đồng trước khi hết hạn thực hiện được án

lệ điều chỉnh rất sớm và có thể nói là vào ngay nửa đầu thế kỷ thứ XIX. Ở Pháp, Tòa

án cũng cho phép một bên hủy hợp đồng trước khi hết thời hạn thực hiện khi bên phải

thực hiện cho biết sẽ không thực hiện hợp đồng [20]. Công ước Viên, PICC và PECL

đều có các quy định tương tự như: theo khoản 1 Điều 72 Công ước Viên, “trước khi

đến ngày thực hiện hợp đồng, một bên có quyền tuyên bố hợp đồng bị hủy bỏ nếu thấy

rõ là bên kia sẽ vi phạm cơ bản hợp đồng” hay khoản 2 Điều 73 “Nếu việc một bên

không thực hiện nghĩa vụ có liên quan đến bất cứ lô hàng nào cho phép bên kia có lý

do xác đáng để cho rằng sẽ có một vi phạm cơ bản hợp đồng với các lô hàng sẽ được

giao trong tương lai thì họ có thể tuyên bố hủy hợp đồng”; Điều 7.3.3 của PICC, “một

bên có quyền hủy hợp đồng nếu, trước khi đến thời hạn thực hiện, thấy rõ là bên kia sẽ

Page 158: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

153

không thực hiện cơ bản hợp đồng”. Tương tự, Điều 9:304 của PECL quy định “nếu,

ngay trước ngày mà hợp đồng phải thực hiện, thấy rõ là một bên sẽ không thực hiện cơ

bản hợp đồng, bên kia có quyền hủy hợp đồng”.

5.2. Định hướng hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản

hợp đồng

Trên cơ sở nghiên cứu Công ước Viên và làm rõ những bất cập trong quy định

và thực tiễn xác định các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng và chế tài

do vi phạm cơ bản hợp đồng trong pháp luật Việt Nam, người viết cho rẳng để hoàn

thiện quy định này trong pháp luật Việt Nam, có thể có 2 hướng: (1) Gia nhập Công

ước Viên; (2) Sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ

bản hợp đồng.

5.2.1. Gia nhập Công ước Viên nhằm hài hòa hóa pháp luật về mua bán

hàng hóa quốc tế của Việt Nam với nhiều quốc gia trên thế giới

Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là chủ trương lớn của Đảng và

Nhà nước ta. Hiện nay, Việt Nam đang thực thi các cam kết với Tổ chức Thương mại

Thế giới (WTO) và là thành viên có trách nhiệm của nhiều tổ chức quốc tế. Các tiến

trình đàm phán, ký kết, gia nhập các Hiệp định thương mại song phương, khu vực

đang ngày càng trở nên mạnh mẽ như Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương

(Trans-Pacific Partnership – TPP), Hiệp định thương mại tự do (FTA) của Việt Nam

với khu vực châu Âu…Do đó, việc tạo sự tương thích giữa pháp luật thương mại của

Việt Nam và pháp luật thương mại quốc tế là một ưu tiên hàng đầu, trong đó chủ yếu

nhằm thực thi các cam kết quốc tế song phương và đa phương mà Việt Nam là thành

viên hoặc đang trong quá trình đàm phán để gia nhập [74].

Nghị quyết Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt

Nam đã khẳng định “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Việt Nam là bạn, đối tác

tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế…Chủ động, tích cực

và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng

cường quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong các khuôn khổ hợp

tác ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương”. Với chủ trương đó, các chuẩn mực chung

của thương mại quốc tế đang được Việt Nam từng bước áp dụng thông qua quá trình

đàm phán, ký kết, gia nhập và thực thi các điều ước quốc tế, trong đó có Công ước

Viên.

Page 159: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

154

Trên thực tế, mức độ tham gia của Việt Nam vào các Điều ước quốc tế đa

phương quan trọng có ảnh hưởng đến thương mại đang ở mức thấp, dưới mức trung

bình của khu vực và trên toàn thế giới (Việt Nam đã tham gia 52 trong số 210 điều ước

quốc tế quan trọng trong lĩnh vực thương mại quốc tế, trong khi đó tỷ lệ trung bình

trên thế giới là 72/210 và trong khu vực là 59/210. Về vấn đề này, Việt Nam được xếp

hạng thứ 132 trên thế giới (trên 192 quốc gia) và thứ 14 trong khu vực Châu Á (trên 23

quốc gia)[120, tr.98]. Nhiều chuyên gia nước ngoài cũng đã đưa ra khuyến nghị Việt

Nam cần gia nhập Công ước Viên trong thời gian sớm nhất, vì đây là một trong những

công ước quốc tế đa phương có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với nền thương mại toàn cầu

[119, tr.183]. Gia nhập Công ước Viên sẽ giúp tăng cường mức độ của Việt Nam tham

gia vào các điều ước quốc tế đa phương về thương mại, từ đó cũng tăng cường mức độ

hội nhập của Việt Nam.

Các quốc gia ASEAN, tại Diễn đàn Pháp luật ASEAN lần thứ ba, diễn ra tại

Viên-chăn (Lào) vào ngày 11-13/9/2006, đã khuyến nghị các quốc gia gia nhập Công

ước Viên nhằm hài hòa hóa pháp luật về mua bán hàng hóa trong khuôn khổ ASEAN.

Việc Việt Nam và các quốc gia thành viên ASEAN khác gia nhập Công ước này cũng

sẽ giúp hài hòa hóa pháp luật về mua bán hàng hóa trong khuôn khổ ASEAN hướng

tới mục tiêu xây dựng cộng đồng Kinh tế ASEAN như đã hoạch định trong Hiến

chương ASEAN.

Khi Việt nam gia nhập Công ước Viên (không bảo lưu Phần II và Phần III) thì

các điều khoản của Công ước này, trong đó có quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng

sẽ trở thành các quy phạm của pháp luật Việt Nam áp dụng cho các giao dịch

MBHHQT có liên quan. Đây là một cách thức hiệu quả và ít tốn kém để hoàn thiện

pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực MBHHQT. Ngoài ra, tại các quốc gia thành viên

của Công ước Viên, người ta nhận thấy rằng quá trình áp dụng Công ước có tác động

tích cực tới việc hoàn thiện pháp luật mua bán hàng hóa quốc gia [87; 111]. Tại Việt

Nam, trong quá trình soạn thảo Luật Thương mại, các nhà làm luật đã tham khảo các

điều khoản của Công ước Viên. Khi Việt Nam gia nhập Công ước Viên, sự ảnh hưởng

của Công ước Viên đến việc hoàn thiện pháp luật về MBHHQT của Việt Nam sẽ càng

rõ nét và thuận lợi hơn nữa.

Cơ sở cho đề xuất định hướng gia nhập Công ước Viên của Việt Nam là Việt

Nam đang trong quá trình chuẩn bị các điều kiện cho việc gia nhập Công ước Viên. Từ

Page 160: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

155

ngày 22/10/2010, trên cơ sở kiến nghị của Bộ Công thương, Phó Thủ tướng Nguyễn

Sinh Hùng đã giao cho Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Tư

pháp nghiên cứu khả năng tham gia Công ước Viên của Việt Nam [15]. Đến ngày

14/1/2013, trên cơ sở kết quả nghiên cứu khả năng gia nhập Công ước Viên của Bộ

Công thương, Thủ tướng đã đồng ý chủ trương Việt Nam gia nhập Công ước Viên và

giao cho Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ tư pháp hoàn chỉnh

hồ sơ xin gia nhập Công ước theo quy định của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều

ước quốc tế năm 2005, lưu ý thẩm định đầy đủ các quy định trái với pháp luật trong

nước, có kế hoạch phổ biến, hướng dẫn, chuẩn bị về mọi mặt cho đối tượng thuộc

phạm vi điều chỉnh của Công ước [14].

5.2.2. Sửa đổi, bổ sung quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng trong pháp luật

Việt Nam

Gia nhập Công ước Viên đòi hỏi một quá trình chuẩn bị, nghiên cứu lâu dài để

xác định tác động của Công ước Viên đối với hệ thống pháp luật Việt Nam cũng như

nội luật hóa các quy định của Công ước Viên (nếu có). Công ước Viên không chỉ cho

phép các quốc gia gia nhập tuyên bố không bị ràng buộc bởi phần thứ II (ký kết hợp

đồng) hay phần thứ III (mua bán hàng hóa) của Công ước [11, Điều 92], mà còn cho

phép cho phép các bên có thể loại trừ việc áp dụng Công ước hoặc với điều kiện tuân

thủ Điều 12 của Công ước, có thể loại trừ bất cứ điều khoản nào của Công ước hay sửa

đổi hiệu lực của các điều khoản đó [11, Điều 6].

Chính vì vậy, dù Việt Nam có gia nhập hay không gia nhập thì việc khắc phục

những bất cập của quy định về vi phạm cơ bản trong pháp luật Việt Nam như hiện nay

là điều cần thiết bởi lẽ: (i) pháp luật Việt Nam và Công ước Viên đều có thể được áp

dụng để điều chỉnh quan hệ mua bán hàng hóa giữa các bên; (ii) Các đối tác lớn của

Việt Nam đều là các quốc gia thành viên Công ước không bảo lưu phần II và phần III

nên Công ước Viên sẽ được áp dụng nếu các bên không có thỏa thuận khác; (iii) Tạo

thuận lợi cho các bên tham gia giao dịch thương mại và cơ quan tài phán trong việc áp

dụng các quy định pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng; (iv) Tạo sự tương

thích giữa pháp luật Việt Nam và Công ước Viên nhằm xóa đi ý niệm tách biệt giữa

mua bán hàng hóa trong nước và quốc tế khi đề cập đến vi phạm cơ bản hợp đồng .

Việc sửa đổi, bổ sung quy định về vi phạm cơ bản trong pháp luật Việt Nam

cần đảm bảo một số yêu cầu sau:

Page 161: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

156

- Sửa đổi, bổ sung quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng trong pháp luật Việt

Nam phải tạo sự thống nhất trong sử dụng thuật ngữ, giải thích và áp dụng quy định

về vi phạm cơ bản trong tất cả các văn bản pháp luật hiện hành về hợp đồng

Có thể nói, hiện nay, việc song song tồn tại các thuật ngữ “vi phạm cơ bản

nghĩa vụ hợp đồng”, “vi phạm nghiêm trọng” trong các văn bản pháp luật có giá trị

cao thấp khác nhau, đôi khi lại tạo ra những lỗ hổng pháp lý khiến người áp dụng và

cơ quan tài phán gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng trong quá trình phân biệt và lựa

chọn áp dụng cho chuẩn xác. Điều này đòi hỏi phải có một giải pháp hợp lý và triệt để

nhằm thống nhất thuật ngữ nhằm tạo cơ sở pháp lý ổn định, minh bạch và tin cậy trong

việc điều chỉnh vi phạm cơ bản hợp đồng.

Điều dễ dàng nhận thấy là hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản phụ

thuộc vào chất lượng của bản thân hệ thống pháp luật. Các quan hệ xã hội ở các lĩnh

vực khác nhau mang nhiều đặc thù riêng đòi hỏi pháp luật phải có phương pháp, quy

phạm pháp luật điều chỉnh tương ứng và phù hợp. Một hệ thống pháp luật duy ý chí,

mâu thuẫn, thiếu đồng bộ tất yếu tạo ra các mâu thuẫn và thiếu đồng bộ trong chính

quan hệ pháp luật, tác động tiêu cực và cản trở sự phát triển của các quan hệ xã hội,

làm mất đi những giá trị xã hội không thể thay thế được của nó [54, tr.168]. Đồng thời,

sự thiếu đồng bộ ở một khâu hay một bộ phận của pháp luật có thể dẫn đến những hậu

quả không thể lường trước được. Pháp luật, phải xuất phát từ tính chất của các quan hệ

xã hội vốn có mối liên hệ nội tại thống nhất để bản thân nó cũng là một hệ thống thống

nhất [74]. Pháp luật không những phải phù hợp với điều kiện kinh tế chung và không

chỉ là sự biểu thị điều kiện chung đó mà còn phải là một sự biểu thị nhất quán từ bên

trong để không tự phủ nhận mình bởi những mâu thuẫn nội tại [77].

Chính vì thế, hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản, trước

hết, cần đảm bảo sự thống nhất thuật ngữ để “đảm bảo tính thống nhất, cân đối mối

liên hệ bên trong và sự phụ thuộc lẫn nhau trong các bộ phận hình thành hệ thống, tính

nhất quán về logic trong cách diễn đạt của người làm luật” [77, tr.89]. Bởi lẽ, “Tiêu

chuẩn để xác định một hệ thống pháp luật đúng đắn và hiệu quả bao gồm: tính toàn

diện, tính đồng bộ, tính phù hợp và công nghệ trong quá trình lập pháp [73, tr.46].

Trong đó tính đồng bộ phải đảm bảo yêu cầu: Đảm bảo sự thống nhất, loại trừ mọi

mâu thuẫn, chồng chéo hay trùng lặp trong bản thân hệ thống để đảm bảo một cơ chế

Page 162: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

157

điều chỉnh hiệu quả. Ngoài ra, hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ

bản cũng cần đảm bảo thống nhất trong giải thích luật và áp dụng luật [61, tr.273].

Một nguyên tắc quan trọng trong việc áp dụng thống nhất pháp luật là nguyên

tắc pháp lý “ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành”, nghĩa là cái riêng (quy định chuyên

ngành) bao giờ cũng được áp dụng trước và chỉ áp dụng cái chung khi cái riêng không

có hoặc không đầy đủ. Như vậy, đối chiếu với quan điểm về tính thống nhất của pháp

luật với các quy định pháp luật về vi phạm cơ bản/vi phạm nghiêm trọng của Việt

Nam hiện nay, không thể phủ nhận đó là một hệ thống còn chứa đựng mâu thuẫn,

chồng chéo trong nội tại và thiếu tính phối hợp trong liên hệ bổ trợ.

Bên cạnh đó, mục đích của hợp đồng cũng khá thiếu đồng bộ. Đối với hợp đồng

trong lĩnh vực thương mại thì mục đích ký kết là nhằm thực hiện hoạt động thương

mại. Đối với hợp đồng dân sự là mục đích ký kết chính là lợi ích hợp pháp mà các bên

mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó. Như vậy, khác với hợp đồng trong lĩnh

vực thương mại, mục đích của hợp đồng dân sự theo thông lệ lại được hiểu là nhằm

phục vụ mục đích sinh hoạt, tiêu dùng. Đây là một khác biệt khá rõ ràng giữa hợp

đồng dân sự và hợp đồng thương mại. Tuy nhiên, khi xem xét quy định của Bộ luật

dân sự về vấn đề này, cho thấy, hợp đồng dân sự không chỉ đơn thuần nhằm mục đích

tiêu dùng như chúng ta thường quan niệm để phân biệt với hợp đồng thương mại mà

nó rộng hơn thế rất nhiều bởi mục đích của giao dịch dân sự trong đó có hợp đồng dân

sự chính là “lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được”. Lợi ích đó có thể là

sự thỏa mãn các nhu cầu tiêu dùng nhưng cũng có thể là lợi nhuận trong hoạt động

thương mại. Như vậy, về mặt logic pháp lý, không thể phủ nhận và loại trừ khả năng

áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự vào các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực

thương mại [40, khoản 3 Điều 4] thì khi đó sự chồng chéo trong áp dụng quy định về

mục đích của hợp đồng sẽ khó tránh khỏi và là khó khăn cho cơ quan tài phán.

Ngoài ra, theo một nghĩa toàn diện hơn thì thống nhất thuật ngữ, quy định về vi

phạm cơ bản hợp đồng còn bao gồm cả việc đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động

giải thích và áp dụng pháp luật. Theo đó, quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng cần

phải được giải thích một cách nhất quát, trung thành với ý tưởng của người làm luật và

điều luật cần phải được giải thích trong mối liên hệ logic, đồng bộ với nguyên tắc

chung, các quy phạm khác có liên quan.

Page 163: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

158

- Sửa đổi, bổ sung quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng của pháp luật Việt

Nam phải nhằm giúp các bên giao kết hợp đồng d dàng áp dụng các chế tài có liên

quan khi có sự vi phạm cơ bản hợp đồng

Trong môi trường kinh doanh ngày càng phát triển và đa dạng, cạnh tranh với

các đối tác nước ngoài trên thị trường Việt Nam cũng như thị trường nước ngoài vô

cùng gay gắt. Hợp đồng thương mại được sử dụng như công cụ pháp lý cho những

“toan tính” của các bên trong hoạt động thương mại. Hơn ai hết, các bên giao kết hợp

đồng luôn mong muốn hợp đồng được thực hiện một cách triệt để, có hiệu quả nhằm

đảm bảo lợi ích, làm nền tảng duy trì, phát triển quan hệ thương mại giữa các bên. Vì

thế, pháp luật cần đủ rõ ràng, minh bạch để đảm bảo cho các bên môi trường pháp lý

bình đẳng, an toàn và thuận lợi cho hoạt động thương mại [51, tr.76].

Quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng có ý nghĩa rất lớn đối với việc áp dụng

các chế tài trong thương mại như tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện

hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng khi các bên không có thỏa thuận về các điều kiện để áp

dụng các chế tài trên. Việc quy định các chế tài này, cùng với các chế tài khác (buộc

thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại), nhằm bảo vệ quyền lợi

của các bên trong quan hệ hợp đồng thương mại, đảm bảo cam kết giữa các bên được

thực hiện. Ngoài ra, các chế tài này cũng không ngoài mục đích nhằm tạo ra môi

trường pháp lý công bằng, thuận lợi để các thương nhân tham gia hoạt động thương

mại hiệu quả, thuận lợi vì mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt trong nền kinh tế

thị trường khi mà các yếu tố cạnh tranh luôn là động lực cho sự phát triển của chính

các thương nhân.

Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, lợi nhuận mà các

thương nhân có được phải là lợi ích kinh tế hợp pháp, được nhận từ việc thực hiện

nghiêm chỉnh nghĩa vụ hợp đồng. Nhưng do mục đích này thương nhân có thể có

nhiều hành vi vi phạm khác nhau dẫn đến việc không thực hiện, thực hiện không đúng

nghĩa vụ hợp đồng làm ảnh hường trực tiếp đến lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm,

thậm chí có thể phát sinh nghĩa vụ về tài sản của bên bị vi phạm đối với bên thứ ba.

Hành vi vi phạm hợp đồng luôn tiềm ẩn nguy cơ xâm hại lợi ích của bên bị vi phạm

(làm mất mát, hư hỏng hàng hóa, giảm sút thu nhập, lợi nhuận…). Để bảo vệ lợi ích

của bên bị vi phạm, bên bị vi phạm có thể tự mình hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm

quyền áp dụng các hình thức chế tài nói trên đối với bên vi phạm. Vì vậy, khi những

Page 164: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

159

căn cứ cho việc áp dụng các chế tài nói trên được quy định rõ ràng, cụ thể thì bên bị vi

phạm có cơ sở rõ ràng để áp dụng hoặc yêu cầu cơ quan tài phán cho phép áp dụng.

Tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hay hủy bỏ hợp

đồng là những chế tài nhằm trừng phạt và thái độ nghiêm khắc của bên bị vi phạm đối

với bên vi phạm trong quan hệ hợp đồng. Khi áp dụng các chế tài này, sự bất lợi mà

bên vi phạm hợp đồng phải gánh chịu cơ bản thể hiện ở chỗ, bên vi phạm không được

đáp ứng các quyền theo thỏa thuận trong hợp đồng, do bên bị vi phạm không phải thực

hiện các nghĩa vụ tương xứng. Vì vậy, việc sửa đổi hoặc làm rõ quy định về vi phạm

cơ bản hợp đồng sẽ góp phần đảm bảo điều kiện thuận lợi cho các bên tham gia hợp

đồng thực hiện được quyền yêu cầu cơ quan tài phán áp dụng các chế tài nói trên mà

không phụ thuộc vào phán quyết mang “cảm tính” của cơ quan tài phán vì sự không rõ

ràng trong quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng của Luật thương mại.

- Sửa đổi, bổ sung quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng của pháp luật Việt

Nam nhằm tạo sự thuận lợi, d dàng và thống nhất cho các cơ quan giải quyết tranh

chấp về hợp đồng của Việt Nam trong việc áp dụng các chế tài khi có sự vi phạm cơ

bản hợp đồng

Thực tiễn cho thấy, ở đâu có hoạt động thương mại thì ở đó có phát sinh tranh

chấp. Vấn đề đặt ra là các bên phải giải quyết tranh chấp đó một cách nhanh chóng và

hiệu quả và cơ quan tài phán (tòa án hoặc trọng tài thương mại) cần can thiệp ở mức

độ nhất định dưới các hình thức khác nhau vào việc giải quyết các tranh chấp, nhằm

đạt được hai mục tiêu cơ bản là: (1) bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên

tranh chấp và; (2) tạo môi trường pháp lý ổn định để phát triển kinh tế.

Với nguyên tắc hai cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm), hệ thống tòa án nhân

dân của Việt Nam được tổ chức từ cấp Huyện, cấp Tỉnh, cấp Cao đến Tòa án nhân dân

tối cao. Bên cạnh đó, các bên tranh chấp thương mại còn có thể lựa chọn trọng tài

thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp giữa các bên. Việc xác định hành vi

vi phạm hợp đồng có bị coi là cơ bản hay không thuộc thẩm quyền của các cơ quan tài

phán này. Trên cơ sở đó, các cơ quan tài phán này có thể cho phép hoặc không cho

phép các bên áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp

đồng và hủy bỏ hợp đồng thương mại. Vì thế, nếu thiếu đi sự rõ ràng, tiêu chí cụ thể về

vi phạm cơ bản, căn cứ quan trọng để áp dụng các chế tài nói trên khi các bên không

có thỏa thuận về các chế tài này, thì dễ dẫn đến “sự đa dạng” trong giải thích quy định

Page 165: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

160

về vi phạm cơ bản tại Luật thương mại và “né tránh” áp dụng quy định này mà thay

vào đó áp dụng quy định trong Bộ luật dân sự như thực tiễn áp dụng pháp luật đã phân

tích ở trên. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn không chỉ đến quyền và lợi ích hợp pháp

của các bên trong tranh chấp thương mại mà còn làm cho môi trường pháp lý trở bên

“bất ổn định”.

Vì vậy, hoàn thiện quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng không chỉ dừng ở quy

định thống nhất về thuật ngữ, về yếu tố xác định vi phạm cơ bản mà còn hoàn thiện

các chế tài có liên quan nhằm tạo ra sự thuận lợi, dề dàng và thống nhất cho cơ quan

tài phán trong việc giải quyết tranh chấp có liên quan đến vi phạm cơ bản hợp đồng

bởi hệ quả pháp lý của vi phạm cơ bản hay không cơ bản là hoàn toàn khác biệt. Vi

phạm cơ bản hợp đồng có thể dẫn tới tạm ngừng thực hiện, đình chỉ thực hiện hoặc

hủy bỏ hợp đồng.

- Sửa đổi, bổ sung quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng của pháp luật Việt

Nam nhằm tạo sự tương thích giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế về vi

phạm cơ bản hợp đồng

Như đã trình bày ở Chương 3, Công ước Viên, PICC, PECL đều có những quy

định về vi phạm cơ bản hợp đồng hay không thực hiện cơ bản hợp đồng. Đặc biệt là

Công ước Viên - văn bản đã thống nhất hoá được nhiều mâu thuẫn giữa các hệ thống

pháp luật khác nhau trên thế giới, đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các

xung đột pháp luật trong thương mại quốc tế và thúc đẩy thương mại quốc tế phát

triển. Hầu hết các cường quốc thương mại trên thế giới đều đã gia nhập Công ước

Viên, trong đó có rất nhiều quốc gia là bạn hàng lớn và lâu dài của Việt Nam như các

quốc gia EU, Hoa Kỳ, Canada, Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,

Singapore...

Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung quy định về vi phạm cơ bản cần theo hướng tạo sự

tương thích giữa pháp luật Việt Nam và các văn bản quốc tế nói trên, đặc biệt là Công

ước Viên. Việc nắm bắt những điểm tương đồng và khác biệt giữa Công ước Viên và

pháp luật thương mại Việt Nam sẽ giúp chúng ta hòa nhập vào nền pháp luật thương

mại quốc tế một cách tự tin, chủ động, phù hợp với điều kiện đặc thù của Việt Nam

cũng như góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của các doanh nghiệp và nâng cao tính

cạnh tranh của nền kinh tế [9]. Bên cạnh đó, việc tiếp thu có chọn lọc các quy định về

không thực hiện cơ bản hợp đồng trong PICC, PECL sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật

Page 166: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

161

thương mại Việt Nam và giúp các doanh nghiệp Việt Nam thuận lợi hơn trong việc áp

dụng các văn bản này trong các giao dịch thương mại quốc tế với các đối tác đến từ

các quốc gia công nhận và áp dụng các văn bản đó.

5.3. Một số giải pháp cụ thể sửa đổi, bổ sung quy định về vi phạm cơ bản hợp

đồng trong pháp luật Việt Nam

Từ những phân tích các quy định và thực tiễn xét xử của Công ước Viên, của

Việt Nam, nhằm khắc phục những bất cập trong quy định và thực tiễn vận dụng quy

định về vi phạm cơ bản của chúng ta, trên cơ sở định hướng sửa đổi, bổ sung quy định

về vi phạm cơ bản hợp đồng, cá nhân người viết đề xuất những giải pháp sửa đổi, bổ

sung cụ thể như sau:

5.3.1. Lựa chọn thuật ngữ “vi phạm cơ bản” hợp đồng

Như đã phân tích ở trên, việc tồn tại song song hai thuật ngữ “vi phạm nghiêm

trọng” và “vi phạm cơ bản” trong pháp luật hợp đồng của Việt Nam đã gây khó khăn

nhất định trong quá trình vận dụng quy định của pháp luật. Vì vậy, người viết đề xuất

sử dụng thuật ngữ “vi phạm cơ bản” bởi các lẽ sau đây:

Thứ nhất, thuật ngữ “vi phạm cơ bản” như trong Luật Thương mại hiện nay

được tiếp thu từ pháp luật nước ngoài và đã được kiểm chứng thực tiễn áp dụng của

các tòa án, trọng tài của một số quốc gia thành viên Công ước. Thuật ngữ “vi phạm cơ

bản” không chỉ được định nghĩa trong Luật Thương mại (“vi phạm nghiêm trọng”

chưa được định nghĩa ở bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào) và cũng đã có thời

gian tồn tại và vận dụng hơn 30 năm của tòa án, trọng tài các quốc gia thành viên

Công ước. Bên cạnh đó, thuật ngữ “nghiêm trọng”, thực tế đã tồn tại trong nhiều văn

bản quy phạm pháp luật Việt Nam, đặc biệt có trong nhiều các quy định của pháp luật

hình sự, pháp luật hành chính. Vì vậy, việc sử dụng thuật ngữ “vi phạm nghiêm trọng”

dễ dẫn đến sự chồng lấn về ngữ nghĩa của thuật ngữ này trong các lĩnh vực hành

chính, hình sự và dân sự.

Thứ hai, Việt Nam đang trong quá trình chuẩn bị các điều kiện cho việc gia

nhập Công ước Viên. Thủ tướng đã đồng ý chủ trương Việt Nam gia nhập Công ước

Viên và giao cho Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ tư pháp

hoàn chỉnh hồ sơ xin gia nhập Công ước theo quy định của Luật ký kết, gia nhập và

thực hiện điều ước quốc tế năm 2005. Khi Việt Nam gia nhập Công ước Viên mà

không bảo lưu Phần II, Phần III của Công ước thì theo tinh thần áp dụng thống nhất

Page 167: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

162

Công ước [11, Điều 7; 108] thì việc sửa đổi các quy định pháp luật Việt Nam có liên

quan đến phạm vi điều chỉnh của Công ước là điều tất yếu và khi đó thuật ngữ “vi

phạm cơ bản” sẽ là phù hợp.

Như vậy, việc nghiên cứu Công ước Viên để từ đó định hướng hoàn thiện quy

định của pháp luật thương mại Việt Nam nói chung, về vi phạm cơ bản hợp đồng nói

riêng theo hướng tạo sự tương thích giữa pháp luật Việt Nam và Công ước Viên không

chỉ đặt ra trong quá trình rà soát hệ thống pháp luật quốc gia trước khi gia nhập điều

ước quốc tế mà còn cả trong giai đoạn thực thi, khi Việt Nam trở thành thành viên của

Công ước Viên. Việc sử dụng thuật ngữ “vi phạm cơ bản” sẽ giúp chúng ta hòa nhập

vào nền pháp luật thương mại quốc tế một cách tự tin, chủ động, phù hợp với điều kiện

đặc thù của Việt Nam cũng như góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của các doanh

nghiệp và nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế, tránh hiện tượng xung đột giữa

Công ước Viên và pháp luật thương mại Việt Nam như Luật Thương mại, Bộ luật dân

sự.

5.3.2. Sửa đổi quy định về vi phạm cơ bản tại khoản 13 Điều 3 Luật thương

mại

Như đã phân tích ở trên, quy định như hiện nay về vi phạm cơ bản trong Luật

Thương mại đã ẩn chứa những bất cập cả trong chính bản thân quy định lẫn trong thực

tiễn áp dụng. Sự thiếu rõ ràng của quy định về “thiệt hại”, “mức độ thiệt hại”, “mục

đích của việc giao kết hợp đồng” và mức độ không đạt được mục đích của việc giao

kết hợp đồng đến thiếu quy định cho phép các bên có thể sửa chữa, khắc phục vi phạm

cơ bản đã khiến khái niệm “vi phạm cơ bản” trong Luật Thương mại “thiếu sức sống”

trong thực tiễn.

Từ phân tích những bất cập trong quy định và thực tiễn áp dụng quy định về vi

phạm cơ bản hợp đồng, trên cơ sở tham khảo quy định và thực tiễn vận dụng của tòa

án, trọng tài một số quốc gia thành viên Công ước Viên trong việc xác định các yếu tố

cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng cũng như bất cập của Công ước Viên về quy định

này, người viết đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về vi phạm cơ bản trong Luật

thương mại như sau:

(i) Không cần thiết phải quy định yếu tố “thiệt hại” trong quy định về vi phạm

cơ bản tại Khoản 13 Điều 3

Từ nghiên cứu thực tiễn vận dụng quy định về vi phạm cơ bản theo Công ước

Viên của tòa án, trọng tài của một số quốc gia thành viên Công ước và phân tích bất

Page 168: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

163

cập của việc quy định “thiệt hại” là yếu tố bắt buộc để xác định tính cơ bản của vi

phạm hợp đồng, người viết cho rằng, yếu tố “thiệt hại” trong khái niệm về vi phạm cơ

bản phải được hiểu là không cần có thiệt hại giống như trường hợp giải quyết vấn đề

bồi thường thiệt hại. Cần phải hiểu “thiệt hại” này theo hướng, đó là những gì không

thuận lợi, tức là ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm. Chỉ nên

coi những vi phạm có ảnh hưởng lớn tới lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm mới là cơ

bản [19, tr.153]. Vì vậy, không nhất thiết phải đặt thuật ngữ này trong khái niệm về vi

phạm cơ bản hợp đồng.

(ii) Thay cụm từ “mục đích của việc giao kết hợp đồng” bằng “lợi ích kỳ vọng

từ hợp đồng”và xác định mức độ ảnh hưởng của vi phạm hợp đồng tới “lợi ích kỳ

vọng từ hợp đồng” bằng cụm từ “tước đi đáng kể”

Người viết kiến nghị vẫn quy định căn cứ chung để xác định một hành vi vi

phạm hợp đồng có là cơ bản hay không. Tuy nhiên, người viết không sử dụng cụm từ

“mục đích của việc giao kết hợp đồng” mà sử dụng trực tiếp quy định về “lợi ích kỳ

vọng từ hợp đồng” bởi lẽ:

(1) Kết quả nghiên cứu về thực tiễn áp dụng quy định về vi phạm cơ bản của tòa

án, trọng tài của một số quốc gia thành viên Công ước Viên cho thấy, tòa án, trọng tài

xác định “những gì bên bị vi phạm có quyền kỳ vọng từ hợp đồng” chính là lợi ích

kinh tế, là lợi nhuận bởi hơn hết giao dịch mua bán hàng hóa của các bên đều nhằm

sinh lợi. Việc sử dụng “mục đích của việc giao kết hợp đồng” càng dễ làm tăng thêm

“cảm tính” của tòa án, trọng tài trong xác định mục đích trong khi đó thay vì tìm kiếm

“mục đích của việc giao kết hợp đồng” của bên bị vi phạm thì có thể trực tiếp xác định

mức độ ảnh hưởng của vi phạm tới lợi ích mà bên bị vi phạm kỳ vọng có được từ hợp

đồng, vì đó mà họ giao kết hợp đồng.

(2) Pháp luật thực định Việt Nam đã có quy định về mục đích của giao dịch dân

tại Điều 123 Bộ luật dân sự, theo đó mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp

mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó. Theo Điều 1 Bộ luật dân

sự, các loại hợp đồng dân sự, lao động, kinh doanh thương mại đều được coi là hợp

đồng dân sự theo nghĩa rộng và được điều chỉnh chung bởi Bộ luật dân sự. Vì vậy,

việc sử dụng “mục đích của việc giao kết hợp đồng” tạo thêm một bước trung gian để

dẫn chiếu đến quy định về mục đích của giao dịch dân sự là khá phức tạp, đặc biệt khi

Page 169: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

164

phải xác định lợi ích nào là hợp pháp, lợi ích nào là bất hợp pháp mà các bên mong

muốn đạt được từ việc xác lập và thực hiện giao dịch thương mại.

Về kỹ thuật lập pháp, người viết khuyến nghị quy định trực tiếp định nghĩa về

vi phạm cơ bản bằng việc sử dụng “lợi ích kỳ vọng từ hợp đồng”. Nguyên tắc chung

không phải lúc nào cũng có thể hoàn toàn thay thế được cho các quy định cụ thể. Từ

nguyên tắc chung đến điều khoản cụ thể là một khoảng cách, từ nguyên tắc chung đến

thực tiễn áp dụng pháp luật còn là khoảng cách xa hơn. Nhất là trong bối cảnh Việt

Nam, khi “thói quen dẫn chiếu” còn được coi trọng [42, tr.21] và khi thẩm phán không

phải là chủ thể có quyền sáng tạo, thậm chí không có quyền giải thích pháp luật (vì

theo Hiến pháp Việt Nam, quyền này chỉ thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội). Theo

quy định tại khoản 2 Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, thì

“văn bản quy phạm pháp luật phải quy định trực tiếp nội dung cần điều chỉnh, không

quy định chung chung…”.

(3) Thực tế sử dụng từ mục đích dễ gây khó khăn, trừu tượng trong việc xác

định nội hàm của nó. Mục đích của hợp đồng bao gồm nhiều loại: mục đích chung của

loại hợp đồng, mục đích riêng của từng nhóm hợp đồng hoặc mục đích cụ thể của từng

hợp đồng riêng lẻ. Mục đích chung của loại hợp đồng được sử dụng để phân biệt giữa

các loại hợp đồng được điều chỉnh bởi các ngành luật khác nhau (dân sự, kinh doanh,

thương mại…). Mục đích riêng của từng hợp đồng riêng lẻ thể hiện giới hạn cụ thể của

cam kết giữa các bên về phạm vi thực hiện hợp đồng. Ví dụ: hợp đồng vay tiền để sản

xuất, kinh doanh hoặc để tiêu dùng…Mục đích của hợp đồng không chỉ thể hiện

những mục tiêu, mong muốn cụ thể của các bên muốn đạt được khi giao kết hợp đồng

mà còn là mong muốn thực hiện hợp đồng theo mục đích đó.

(4) Điều quan trọng tạo nên vi phạm cơ bản, làm cho vi phạm cơ bản khác với

các vi phạm hợp đồng khác là mức độ ảnh hưởng của hành vi vi phạm đối với kỳ vọng

của bên bị vi phạm từ hợp đồng, đến mục đích của việc giao kết hợp đồng. Vì vậy,

không nên quy định như hiện tại “làm cho bên bị thiệt hại không đạt được mục đích

của việc giao kết hợp đồng” vì sự khó khăn trong việc xác định mức độ không đạt

được mục đích (một phần hay toàn bộ) của việc giao kết hợp đồng, từ đó dẫn đến “tính

đa dạng” trong các vụ việc có cùng tính chất, nội dung như nhau nhưng kết quả khác

nhau khi được giải quyết với tòa án, trọng tài khác nhau. Điều này ảnh hưởng mạnh

mẽ tới việc áp dụng thống nhất pháp luật của tòa án, trọng tài. Quy định về vi phạm cơ

Page 170: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

165

bản cần chỉ rõ tác động của hành vi vi phạm phải đến mức “tước đi đáng kể lợi ích kỳ

vọng từ hợp đồng” của bên bị vi phạm mới đảm bảo cấu thành vi phạm cơ bản.

Từ những phân tích trên, người viết đề xuất sửa đổi khoản 13 Điều 13 của Luật

thương mại như sau:

Vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên tước đi đáng kể lợi ích bên

kia kỳ vọng từ hợp đồng.

5.3.3. Sửa đổi, bổ sung khoản 2, khoản 3 Điều 297 về buộc thực hiện đúng

hợp đồng

Để khắc phục những bất cập của Điều 297 Luật thương mại, người viết kiến

nghị sửa đổi, bổ sung một số nội dung quy định sau:

- Sửa đổi khoản 2 Điều 297 theo hướng bao quát vi phạm hợp đồng hơn

Quy định tại khoản 2 Điều 297 không những trao cho người mua quyền yêu cầu

giao hàng thay thế ngay cả với những khiếm khuyết nhỏ mà người bán có thể sửa

chữa, khắc phục được, mà còn không bao phủ hết các trường hợp vi phạm hợp đồng.

Ví dụ, bao bì hàng giao không phù hợp với hợp đồng thì không thuộc phạm vi điều

chỉnh của khoản 2 Điều 297 vì khoản 2 Điều 297 chỉ cho phép áp dụng chế tài buộc

thực hiện đúng hợp đồng trong trường hợp giao thiếu hàng hoặc hàng kém chất lượng.

Vì vậy, để đảm bảo tính tương thích với các quy đinh khác về quyền và nghĩa vụ của

người bán và người mua (bên cung ứng dịch vụ và khách hàng), đặc biệt là quy định

về sự không phù hợp của hàng hóa tại Điều 39 Luật thương mại, người viết kiến nghị

sửa khoản 2 Điều 297 như sau:

“Điều 297. Buộc thực hiện đúng hợp đồng

2. Trường hợp bên vi phạm giao thiếu hàng hoặc cung ứng dịch vụ không phù

hợp với hợp đồng thì phải giao đủ hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng thỏa thuận.

Trường hợp bên vi phạm giao hàng hóa, cung ứng dịch vụ không phù hợp về chất

lượng thì phải, với chi phí của mình, khắc phục sự không phù hợp đó của hàng hóa,

dịch vụ hoặc giao hàng, cung ứng dịch vụ thay thế theo đúng hợp đồng nếu sự không

phù hợp đó cấu thành một sự vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Bên vi phạm không

được dùng tiền hoặc hàng hóa khác chúng loại, loại dịch vụ khác để thay thế nếu

không được sự chấp thuận của bên bị vi phạm.

- Sửa đổi khoản 3 Điều 297

Như đã phân tích ở trên, khoản 3 Điều 297 quy định quyền mua hàng, nhận

cung ứng dịch vụ của người khác để thay thế khi người bán giao hàng, cung ứng dịch

Page 171: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

166

vụ không phù hợp với hợp đồng nhưng không thực hiện loại trừ sự không phù hợp đó

(giao hàng thiếu, kém chất lượng; cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng, có thiếu

sót), về mặt bản chất pháp lý, là hệ quả pháp lý khi hợp đồng với bên vi phạm bị hủy

bỏ một phần hoặc toàn bộ hợp đồng. Để đảm bảo tính logic của chế tài trong thương

mại, phần quy định này tại khoản 3 Điều 297 “3. Trong trường hợp bên vi phạm không

thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều này thì bên bị vi phạm có quyền mua hàng,

nhận cung ứng của người khác để thay thế theo đúng loại hàng hóa, dịch vụ ghi trong

hợp đồng và bên vi phạm phải trả khoản tiền chênh lệch và các chi phí liên quan nếu

có” nên được loại bỏ ra khỏi Điều 297.

Như vậy, khoản 3 Điều 297 sẽ được thiết kế lại như sau:

“Điều 297. Buộc thực hiện đúng hợp đồng

3. Trong trường hợp bên vi phạm không thực hiện quy định tại khoản 2 Điều

này thì bên bị vi phạm có quyền tự khắc phục sự không phù hợp của hàng hóa, dịch vụ

và bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý”.

5.3.4. Sửa đổi Điều 39 và bỏ Điều 51

Quyền từ chối nhận hàng của người mua cũng chỉ nên được thừa nhận nếu sự

không phù hợp của hàng hóa được giao là đáng kể, ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi

ích hợp pháp của người mua. Quy định như hiện nay tại Khoản 2 Điều 39 dễ dẫn đến

lạm dụng quyền từ chối nhận hàng của người mua. Nhận hàng là nghĩa vụ, chấp nhận

hàng là quyền của người mua nên không thể tồn tại mâu thuẫn chính trong Luật

thương mại khi đều là nhận hàng nhưng vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ. Chính vì thế,

để tạo sự tương thích với các quy định khác của Luật thương mại, người viết kiến nghị

sửa điều khoản nói trên như sau:

“Điều 39. Hàng hóa không phù hợp với hợp đồng

2. Bên mua có quyền từ chối chấp nhận hàng nếu hàng hóa không phù hợp với

hợp đồng theo quy định tại khoản 1 Điều này cấu thành vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp

đồng.”

Bên cạnh đó, như đã phân tích ở trên, quy định về việc ngừng thanh toán tiền

mua hàng ở Điều 51 của Luật thương mại sẽ không phù hợp với quy định về tạm

ngừng thực hiện hợp đồng. Ngừng thanh toán tiền mua hàng, về mặt bản chất, cũng là

tạm ngừng thực hiện hợp đồng của người mua. Trong khi đó có quy định về điều kiện

tạm ngừng thanh toán tiền mua hàng tại Điều 308 Luật Thương mại, sự tồn tại của

Page 172: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

167

Điều 51 với những căn cứ để ngừng thanh toán tiền mua hàng đã dẫn đến phạm vi nội

hàm của “vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng” bị “bó hẹp” lại bởi vì người mua có thể

ngừng thanh toán ngay cả khi hàng hóa được giao có sự không phù hợp rất nhỏ so với

hợp đồng. Chính vì thế, người viết kiến nghị bỏ điều khoản này và thống nhất để Điều

308 điều chỉnh.

5.3.5. Sửa đổi khoản 2 Điều 299 và Điều 312

Như đã phân tích ở trên, hủy bỏ hợp đồng là chế tài rất nặng nề, tác động trực

tiếp lên hiệu lực hợp đồng và các bên giao kết hợp đồng cũng như cơ quan tài phán

cần cân nhắc kỹ lưỡng trước khi yêu cầu hoặc quyết định nhằm đảm bảo nguyên tắc

tuân thủ hợp đồng bởi hợp đồng được giao kết không phải để bị mất hiệu lực tạm thời,

mất hiệu lực hay mất hiệu lực hồi tố. Tuy nhiên, điều kiện hủy bỏ hợp đồng khi các

bên không có thỏa thuận là quá rộng dẫn đến nguy cơ “lạm dụng” để yêu cầu áp dụng

một trong các chế tài này và tạo sự không tương thích giữa Điều 312 và Điều 313.

Chính vì vậy, người viết kiến nghị chỉ nên xem xét áp dụng các chế tài này khi không

thực hiện hợp đồng cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng bởi với hành vi thực hiện

không đúng hợp đồng như giao hàng không đúng số lượng, giao hàng không phù hợp

về chất lượng, bên bị vi phạm có thể yêu cầu bên vi phạm khắc phục hoặc giao hàng

thay thế với chi phí của bên vi phạm. Tác động lên hiệu lực hợp đồng chỉ nên xem là

biện pháp cuối cùng sau khi đã áp dụng các biện pháp khác.

Điều 298 cho phép bên bị vi phạm có thể gia hạn một thời gian hợp lý để bên vi

phạm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Tiếp theo, khoản 2 Điều 299 quy định “Trường

hợp bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời hạn

mà bên bị vi phạm ấn định, bên bị vi phạm được áp dụng chế tài khác để bảo vệ quyền

lợi chính đáng của mình. Tuy nhiên, nếu muốn áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện,

đình chỉ thực hiện hay hủy bỏ hợp đồng thì phải có điều kiện là vi phạm cơ bản hợp

đồng. Phải chăng Luật thương mại gián tiếp thừa nhận không thực hiện nghĩa vụ hợp

đồng trong thời hạn gia hạn là vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng thì bên bị vi phạm

mới có cơ sở áp dụng chế tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình được. Tuy

nhiên, việc quy định cho phép áp dụng “chế tài khác” dễ dẫn đến tính đa dạng trong

thực tiễn và không phù hợp với thực tiễn pháp luật quốc tế.

Để đảm bảo quyền lợi của bên bị vi phạm, trên cơ sở tham khảo quy định của

Công ước Viên cho thấy, thực tiễn tòa án, trọng tài cho phép bên bị vi phạm có quyền

Page 173: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

168

hủy hợp đồng nếu đã gia hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng cho bên vi phạm

nhưng bên vi phạm vẫn không thực hiện hợp đồng trong thời gian gia hạn thêm đó. Ví

dụ, bên vi phạm vẫn không giao hàng hoặc không thanh toán tiền hàng mặc dù bên bị

vi phạm đã yêu cầu giao hàng, thanh toán tiền hàng trong thời hạn nhất định. Vì vậy,

thay vì bổ sung căn cứ hủy bỏ hợp đồng do không thực hiện hợp đồng trong thời hạn

mà bên bị vi phạm ấn định, thậm chí là tuyên bố không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng,

chúng ta có thể sửa đổi khoản 2 Điều 299 cho phép chấm dứt hợp đồng bằng cách áp

dụng trực tiếp chế tài đình chỉ thực hiện hoặc hủy bỏ hợp đồng. Do đó, sẽ tạo được sự

kết nối giữa Điều 298, khoản 2 Điều 299 với Điều 310, Điều 312, cụ thể:

Điều 299. Quan hệ giữa chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng và các loại chế

tài khác

2. Trường hợp bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp

đồng trong thời hạn mà bên bị vi phạm ấn định, bên bị vi phạm có quyền áp dụng chế

tài đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng để bảo vệ quyền lợi chính đáng

của mình.

Điều 312. Hủy bỏ hợp đồng

4. Trừ trường hợp mi n trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, chế tài

hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong các trường hợp sau đây:

a) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp

đồng.

b) Một bên không thực thực hiện hợp đồng cấu thành vi phạm cơ bản nghĩa vụ

hợp đồng.

5.3.6. Bổ sung Điều luật quy định về hủy bỏ hợp đồng do vi phạm hợp đồng

dự đoán trước (vi phạm hợp đồng trước thời hạn)

Như đã phân tích ở trên, hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn, khi có vi phạm dự

đoán trước là vấn đề bị “bỏ ngỏ” trong luật hiện hành. Thực trạng đó đòi hỏi cần phải

bổ sung điều luật quy định về vấn đề này. Sự bổ sung quy định này là cần thiết vì các

lý do sau đây:

- Không thể bảo vệ quyền lợi cho một bên khi không cho phép một bên hủy bỏ

hợp đồng trong khi đó biết chắc là bên kia sẽ không thực hiện hợp đồng. Cơ sở triết lý

của giải pháp này là dựa trên định đề rằng sẽ không công bằng nếu bên có quyền, dù

chắc chắn là nghĩa vụ hợp đồng sẽ không được bên kia thực hiện, không có bất cứ một

Page 174: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

169

giải pháp tự vệ nào đối với việc này [48, tr.690; 20]. Cơ chế hủy bỏ hợp đồng trước

thời hạn không dựa vào sự mất lòng tin do vi phạm hợp đồng của bên kia đã xảy ra

trên thực tế, mà rộng hơn là căn cứ vào sự khủng hoảng lòng tin trong quan hệ hợp

đồng giữa các bên. Trong mọi trường hợp, quan hệ hợp đồng phải được tháo gỡ sớm

nhất có thể, ngay khi thái độ bên có nghĩa vụ rõ ràng bất lợi cho việc thực hiện hợp

đồng, ví dụ từ chối một cách rõ ràng việc thực hiện hợp đồng trong tương lai, phủ

nhận một cách không thiện chí sự tồn tại của hợp đồng hoặc nội dung các cam kết của

mình, hoặc không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên có nghĩa vụ đã tạo ra một sự ngờ

vực trong quan hệ hợp đồng làm cho không thể để hợp đồng tồn tại cho tới khi đến

hạn, ngay cả khi nguy cơ vi phạm hợp đồng không phải là không thể khắc phục được.

Do đó, không thể bắt buộc bên có quyền phải ở trong trạng thái chờ đợi để tạo điều

kiện cho bên có nghĩa vụ có thể lấy lại tình cảm tốt đẹp của mình. Quy định của pháp

luật Anh – Mỹ, cũng như của công ước Viên 1980 về vi phạm hợp đồng trước thời hạn

là thật sự cần thiết và phù hợp với thực tiễn hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế nói

riêng, và hoạt động thương mại quốc tế nói chung [59].

Mặt khác, cho phép một bên hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp bên kia sẽ vi

phạm hợp đồng tạo ra lợi ích về mặt kinh tế. Ví dụ, khi biết chắc là bên mua sẽ không

nhận hàng và không trả tiền, cho phép người bán hủy hợp đồng sẽ giúp họ sớm tìm

được nguồn tiêu thụ mới hoặc quyết định không tiếp tục sản xuất nữa để tránh bị tồn

đọng thừa hàng. Hoặc, nếu cho phép bên mua hủy hợp đồng khi biết chắc là bên bán

sẽ không thực hiện hợp đồng, chúng ta sẽ giúp người mua sớm đi tìm người bán khác

để có được số lượng hàng cần mua nhằm đáp ứng được nhu cầu của mình.

- Chúng ta đã là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đang tích

cực đàm phán hiệp định TPP, ETA. Điều này chứng tỏ rằng, việc đang ngày càng hội

nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới trong khi đó các văn bản quốc tế về thương mại,

như vừa đề cập, cho phép một bên hủy hợp đồng khi biết chắc rằng bên kia sẽ không

thực hiện một phần quan trọng của hợp đồng [63]. Việc bổ sung vào Luật Thương mại

nước ta các quy định tương tự sẽ, một lần nữa, cho thế giới biết rằng chúng ta thực sự

muốn hội nhập. Chẳng hạn, trước năm 1999, ở Trung Quốc, vấn đề vi phạm hợp đồng

trước thời hạn thực hiện chỉ được đề cập trong Luật về hợp đồng kinh tế với nước

ngoài; các văn bản khác về hợp đồng như Luật về hợp đồng kinh tế hay Luật về

chuyển giao công nghệ hoàn toàn không đề cập đến vấn đề này. Với quyết tâm hội

Page 175: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

170

nhập vào Tổ chức thương mại quốc tế, hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới,

năm 1999, Trung Quốc thừa nhận quyền một bên hủy hợp đồng khi biết chắc rằng bên

kia sẽ không thực hiện hợp đồng trong Luật hợp đồng của Trung Quốc: Theo khoản 2

Điều 94, hợp đồng có thể bị hủy nếu, trước thời điểm thực hiện hợp đồng, một bên cho

thấy sẽ không thực hiện nghĩa vụ chính của hợp đồng [20; 134].

Từ nhận thức đó, tác giả kiến nghị bổ sung một Điều luật mới để quy định về

hủy bỏ hợp đồng do vi phạm hợp đồng dự đoán trước theo những yêu cầu sau đây:

(1) Vị trí và tiêu đề của Điều luật quy định về hủy bỏ hợp đồng do vi phạm hợp

đồng dự đoán trước

Hiện nay, quy định về hủy bỏ hợp đồng do vi phạm hợp đồng dự đoán trước

chưa được quy định trong Luật Thương mại. Vị trí của Điều luật này cần đặc trong

mối quan hệ tổng thể với các điều luật khác có liên quan đến hủy bỏ hợp đồng. Xem

xét cơ cấu hiện tại của Luật Thương mại, thì vị trí của Điều luật nên đặt sau Điều 312,

trước Điều 313 quy định về hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp giao hàng, cung ứng

dịch vụ từng phần. Tiêu đề của Điều luật này nên là “Điều 312a. Hủy bỏ hợp đồng do

vi phạm hợp đồng dự đoán trước”. Với sự kết hợp quy định này với các quy định khác

hiện có, sẽ tạo nên một tập hợp các quy phạm pháp luật có hệ thống và mang tính

chỉnh thể làm thành cơ chế điều chỉnh vi phạm cơ bản hợp đồng.

(2) Bố cục và nội dung của Điều luật: cần xác định rõ căn cứ hủy hợp đồng do

vi phạm hợp đồng dự đoán trước và những thủ tục để áp dụng nó.

Bổ sung quy định về hủy bỏ hợp đồng do vi phạm hợp đồng dự đoán trước tạo

cho bên có quyền lựa chọn giữa việc hủy bỏ hợp đồng và duy trì hợp đồng. Nguyên tắc

này cũng được thừa nhận rộng rãi trong mọi hệ thống pháp luật có sử dụng khái niệm

vi phạm hợp đồng dự đoán trước [76, tr.237]. Quyền này cũng đã được Luật Thương

mại thừa nhận đối với đình chỉ thực hiện, hủy bỏ hợp đồng khi bên có nghĩa vụ vi

phạm nghĩa vụ khi đến hạn thực hiện, nếu là vi phạm cơ bản nghĩa vụ. Tuy nhiên, đối

với trường hợp vi phạm dự đoán trước, bên có quyền có thể lựa chọn hai lần. Lần thứ

nhất là bên có quyền sẽ cân nhắc xem có nên đợi cho đến khi đến hạn thực hiện hợp

đồng mới chấm dứt hợp đồng hay không. Nếu bên có quyền quyết định không đợi thì

sẽ hết quyền lựa chọn: hợp đồng chấm dứt và bên có quyền có thể yêu cầu thiệt hại

ngay lập tức. Ngược lại, nếu bên có quyền quyết định đợi cho đến khi đến hạn thực

hiện hợp đồng thì cũng có nghĩa là đã tạo cơ hội cho bên có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ

Page 176: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

171

nghĩa vụ của họ trong hợp đồng. Nhưng trong trường hợp việc vi phạm hợp đồng

chuyển từ tình trạng được dự đoán xảy ra trên thực tế khi đến hạn thực hiện thì bên có

quyền lại được quyền lựa chọn lần nữa: nếu vi phạm đã xảy ra trên thực tế là cơ bản

thì bên có quyền có thể hoặc chấm dứt hoặc không chấm dứt hợp đồng. Hơn nữa, bên

có quyền có thể dự đoán bên có nghĩa vụ sẽ vi phạm cơ bản nghĩa vụ khi chưa đến hạn

thực hiện nghĩa vụ đó, nếu bên có nghĩa vụ đã không thực hiện một nghĩa vụ đến hạn

thực hiện trên thực tế.

Ngoài ra, bên nào thực hiện quyền hủy bỏ hợp đồng thì phải chịu mọi rủi ro,

nghĩa là phải một mình chịu trách nhiệm xác định xem các điều kiện thực hiện quyền

này đã hội đủ chưa, bởi lẽ có thể có sự kiểm tra về sau của thẩm phán hoặc trọng tài

viên. Rủi ro tăng lên trong trường hợp vi phạm hợp đồng dự đoán trước do khó khăn

trong việc dự đoán tương lai, bởi lẽ bên có quyền phải chứng minh được những lo ngại

thực sự và tối thiểu liên quan đến việc thực hiện hợp đồng trong tương lai. Đó chính là

lý do tại sao khi quy định hủy bỏ hợp đồng do vi phạm hợp đồng dự đoán trước cần

phải quy định kèm theo một thủ tục thông báo và cho phép yêu cầu hoặc đưa ra những

bảo đảm thực hiện hợp đồng, thủ tục này vì quyền lợi của cả bên có quyền và bên có

nghĩa vụ. Trong một số trường hợp, bên có nghĩa vụ, khi được yêu cầu, có thể đưa ra

những đảm bảo thỏa đáng và nhanh chóng cho bên có quyền và do vậy, hợp đồng sẽ

tiếp tục được thực hiện một cách bình thường.

Với nội dung vừa trình bày, bố cục của Điều 312a (mới) nên được thiết kế

thành 2 khoản khác nhau, mỗi khoản quy định về một nội dung tương ứng. Cụ thể:

Khoản 1 quy định về điều kiện hủy bỏ hợp đồng do vi phạm hợp đồng dự đoán trước;

Khoản 2 quy định về thủ tục áp dụng hủy bỏ hợp đồng do vi phạm hợp đồng dự đoán

trước.

+ Khoản 1: Điều kiện hủy bỏ hợp đồng do vi phạm hợp đồng dự đoán trước

Trước hết, để hủy bỏ hợp đồng do vi phạm hợp đồng dự đoán trước phải xác

định được là nguy cơ cao hợp đồng không được thực hiện. Chính vì thế, ở những nước

mà pháp luật quy định chỉ được phép hủy bỏ hợp đồng khi một bên vi phạm cơ bản

nghĩa vụ hợp đồng trên thực tế những điều kiên tương tự cũng được áp dụng đối với

trường hợp việc vi phạm mới chỉ được dự đoán [76; 131]. Vì thế, việc hủy bỏ hợp

đồng, cho dù có hay không có sự can thiệp của tòa án, cho dù có hiệu lực hồi tố hay

chỉ chấm dứt hiệu lực hợp đồng về tương lai, thì cũng luôn nên là một chế tài áp dụng

Page 177: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

172

đối với các vi phạm hợp đồng ở mức độ nghiêm trọng nhất và phải đảm bảo mức độ

chắc chắn khi dự đoán việc một bên sẽ không thực hiện hợp đồng làm căn cứ tuyên bố

hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn.

Cơ chế này cho phép áp dụng ngay lập tức những biện pháp thay thế kịp thời

cam kết được thỏa thuận. Quy định này chắc chắn có lợi cho cả hai bên vì nó cho phép

giảm thiểu thiệt hại mà bên có nghĩa vụ sẽ phải bồi thường, nhưng cũng có thể có hệ

quả xấu nếu bên có quyền sử dụng quá nhanh chóng các quyền của mình. Do vậy, cơ

chế này làm cho hợp đồng bị chấm dứt quá sớm trong khi có thể tránh được điều đó

nếu chờ đến thời điểm được quy định để bên kia thực hiện nghĩa vụ của mình. Như

vậy, việc hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn cần phải tuân thủ những điều kiện hết sức

chặt chẽ. Nội dung khoản 1 này phải khẳng định được hủy bỏ hợp đồng do vi phạm

hợp đồng dự đoán trước chỉ có thể được áp dụng đối với vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp

đồng dự đoán trước.

+ Khoản 2: Thủ tục áp dụng hủy bỏ hợp đồng do vi phạm hợp đồng dự đoán

trước

Rất khó chứng minh vi phạm hợp đồng dự đoán trước. Tuy nhiên, để quyền của

bên bị vi phạm hợp đồng theo dự đoán được sử dụng một cách hiệu quả thì quyền đó

phải được thực hiện mà không cần sự cho phép của tòa án. Bên có quyền sẽ phải chịu

rủi ro nếu đánh giá sai tình hình và trong trường hợp này, chính bên bị vi phạm phải

chịu trách nhiệm về viêc lạm dụng quyền hủy bỏ hợp đồng.

Về mặt thủ tục, cần quy định bên có quyền có trách nhiệm thông báo, trước

hoặc ngay sau khi có quyết định, cho bên có nghĩa vụ biết về các quyền mà mình sẽ

thực hiện hoặc đã thực hiện nhằm cho phép bên có nghĩa vụ ngăn cản bên có quyền

hủy hợp đồng trước thời hạn bằng cách đưa ra những biện pháp thích hợp để đảm bảo

mình sẽ thực hiện hợp đồng. Thủ tục này được quy định theo hướng có lợi cho bên có

quyền. Cụ thể là: việc yêu cầu bên có nghĩa vụ phải có biện pháp bảo đảm thực hiện

hợp đồng có thể sẽ tạo thuận lợi cho bên có quyền khi chứng minh cho dự đoán của

mình về vi phạm của bên kia, hoặc sẽ được bên có quyền tận dụng trong trường hợp

họ không được phép tuyên bố ngay lập tức việc hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn vì đó

không phải là trường hợp vi phạm hợp đồng dự đoán trước.

Chính vì vậy, khoản 2 cần dự kiến một thủ tục hợp lý cho phép bên có quyền,

trong nhưng trường hợp không hiển nhiên, chứng minh có nguy cơ cao vi phạm hợp

Page 178: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

173

đồng. Thủ tục này có thể bao gồm thông báo về việc hủy bỏ hợp đồng và bên có quyền

có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ đưa ra những bảo đảm hợp lý để thực hiện hợp đồng

(tương tự khoản 2 Điều 72 Công ước Viên). Thủ tục bảo đảm thực hiện hợp đồng cũng

được quy định tại PECL, theo đó, nếu một bên có cơ sở để cho rằng không thực hiện

cơ bản hợp đồng sẽ xảy ra, thì có quyền yêu cầu bên kia phải áp dụng những biện pháp

thích hợp để đảm bảo thực hiện hợp đồng (Điều 8:105-1). Trong trường hợp các biện

pháp bảo đảm đó không được đưa ra trong một thời hạn hợp lý thì bên có quyền được

quyền chấm dứt hợp đồng nếu như vẫn có cơ sở tin rằng hợp đồng sẽ không được thực

hiện. PICC cũng quy định tương tự (Điều 7.3.4). Thủ tục này có lợi cho bên có nghĩa

vụ vì có khả năng làm giảm bớt lo ngại của bên có quyền, tránh xảy ra một tình huống

không thể khắc phục được. Trên thực tế, thủ tục này làm đảo ngược nghĩa vụ chứng

minh, nghĩa là buộc một người chưa có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng phải chứng minh

là mình vẫn muốn và có khả năng thực hiện các nghĩa vụ quy định trong hợp đồng, và

nếu không đưa ra được cho bên có quyền những bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì bị dự

đoán là sẽ vi phạm hợp đồng.

Tóm lại, nội dung cụ thể của Điều 312a (mới) quy định về hủy bỏ hợp đồng do

vi phạm hợp đồng dự đoán trước như sau:

“Điều 312a. Hủy bỏ hợp đồng do vi phạm hợp đồng dự đoán trước

1. Một bên có quyền tuyên bố hủy bỏ hợp đồng nếu trước khi đến hạn thực hiện

hợp đồng có dấu hiệu rõ ràng cho thấy bên kia vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.

2. Bên có ý định tuyên bố hủy bỏ hợp đồng phải thông báo cho bên kia để cho

phép bên kia áp dụng những biện pháp thích hợp nhằm bảo đảm thực hiện hợp đồng,

trừ khi bên kia tuyên bố không thực hiện hợp đồng”.

Kết luận Chương 5

Vi phạm cơ bản hợp đồng là khái niệm mới được tiếp thu trong pháp luật

thương mại Việt Nam, cụ thể là Luật Thương mại. Tuy nhiên, hiện nay, tồn tại song

song thuật ngữ “vi phạm nghiêm trọng” hay “vi phạm cơ bản” dễ gây hiểu nhầm, khó

khăn trong việc tiếp cận cũng như hướng dẫn của cơ quan giải quyết tranh chấp. Hơn

nữa, “thiệt hại” và “mục đích của việc giao kết hợp đồng” là những điểm chưa rõ ràng

trong quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng, đôi khi việc đưa yếu tố “thiệt hai” bắt

buộc khi xác định vi phạm cơ bản trở nên không cần thiết; quyền khắc phục vi phạm

của bên vi phạm chưa được đảm bảo… Tòa án và trọng tài thường không có giải thích

Page 179: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

174

thỏa đáng khi vận dụng quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng để cho phép các bên

trong hợp đồng thương mại áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ

thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng. Vì thế, hoàn thiện quy định pháp luật Việt

Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng là rất cần thiết, theo đó việc hoàn thiện quy định của

pháp luật Việt Nam về vi pham cơ bản hợp đồng có thể theo hướng gia nhập Công ước

Viên hoặc sửa đổi, bổ sung một số quy định trong pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ

bản hợp đồng nhằm tạo sự tương thích với Công ước Viên trong bối cảnh chúng ta

đang tích cực tiến hành các hoạt động để gia nhập Công ước Viên.

Page 180: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

175

KẾT LUẬN

1. Vi phạm cơ bản hợp đồng là căn cứ quan trọng để áp dụng các chế tài tạm

ngừng thực hiện, đình chỉ thực hiện và hủy bỏ hợp đồng khi các bên không có thỏa

thuận cụ thể điều kiện để áp dụng các chế tài này. Vi phạm cơ bản hợp đồng khác với

vi phạm không cơ bản ở chỗ là hậu quả pháp lý của nó rất nặng nề. Đây là vấn đề pháp

lý rất phức tạp và có mối liên hệ biện chứng với nhiều vấn đề pháp lý quan trọng khác

của pháp luật hợp đồng thương mại như vi phạm hợp đồng, thiệt hại, mục đích của

giao kết hợp đồng, tạm ngừng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng…Do

vậy, việc nghiên cứu hoàn thiện quy định pháp luật về vi phạm cơ bản hợp đồng cũng

có ý nghĩa là hoàn thiện các vấn đề đó. Luận án tập trung nghiên cứu quy định lẫn thực

tiễn áp dụng liên quan đến các vấn đề như các yếu tố cấu thành tình cơ bản của vi

phạm hợp đồng theo Công ước Viên; chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công

ước Viên; những bất cập trong các quy định và thực tiễn áp dụng quy định về vi phạm

cơ bản hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và định hướng hoàn thiện. Mỗi nội dung

vừa nêu được thiết kế thành một chương, kết hợp với chương lý luận về vi phạm cơ

bản hợp đồng MBHHQT, tạo thành bốn chương của luận án.

2. Nội dung chương 2 tập trung làm rõ các vấn đề lý luận về vi phạm cơ bản

hợp đồng MBHHQT. Nội dung trọng tâm của Chương 2 là làm rõ các khái niệm về

hợp đồng MBHHQT, về vi phạm hợp đồng, về vi phạm cơ bản hợp đồng và vi phạm

cơ bản hợp đồng MBHHQT và cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với vi phạm cơ bản.

Kết quả nghiên cứu của chương 2 là thống nhất và đưa ra được khái niệm về vi phạm

cơ bản hợp đồng nói chung, vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT nói riêng. Bên cạnh

đó, kết quả nghiên cứu chương 2 cũng chỉ ra cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với phạm

cơ bản hợp đồng theo hướng tôn trọng tự do hợp đồng và hiệu lực bất biến của hợp

đồng.

3. Nội dung chương 3 tập trung nghiên cứu các yếu tố cấu thành tính cơ bản của

vi phạm hợp đồng theo Công ước Viên. Kết quả nghiên cứu chương 3 là phân tích,

làm rõ cả về quy định lẫn thực tiễn xác định các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi

phạm hợp đồng theo Công ước Viên, có so sánh với quy định yếu tố cấu thành tính cơ

bản của vi phạm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam.

4. Nội dung chương 4 nghiên cứu về quy định cũng như thực tiễn vận dụng quy

định về chế tài (hệ quả pháp lý) do vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên. Kết

Page 181: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

176

quả nghiên cứu chương 4 đã làm rõ chế tài do vi vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công

ước Viên như hủy hợp đồng, yêu cầu giao hàng thay thế. Mục đích của giao kết hợp

đồng chính là lợi ích kinh tế, biểu hiện cụ thể đối với người mua là mua hàng để bán

lại hoặc vì mục đích sử dụng thông thường nào đó; đối với người bán là nhận thanh

toán; khả năng khắc phục vi phạm cũng được xem xét khi xem xét chế tài do vi phạm

cơ bản hợp đồng.

5. Nội dung chương 5 phân tích, làm rõ những bất cập của quy định pháp luật

Việt Nam về vi phạm cơ bản và bất cập trong thực tiễn áp dụng quy định này. Kết quả

nghiên cứu của chương 5 là chỉ ra những điểm bất cập trong quy định lẫn thực tiễn xác

định các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam

như yếu tố thiệt hại không rõ ràng và không cần thiết, mục đích của việc giao kết hợp

đồng không rõ ràng. Bên cạnh đó, bất cập cũng hiện hữu trong quy định và thực tiễn

vận dụng chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo pháp luật Việt Nam. Từ đó, chương

5 cũng đưa ra những định hướng hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về vi

phạm cơ bản, theo đó hoàn thiện phải tạo sự thống nhất thuật ngữ, dề hiểu và dễ áp

dụng cho cộng đồng doanh nghiệp cũng như tòa án, trọng tài trong quá trình giải quyết

tranh chấp. Đề xuất sửa đổi các quy định: Khoản 13 Điều 3, Điều 39, Điều 51, Điều

297, Điều 299, Điều 308, 310, 312 và bổ sung Điều 312a vào Luật Thương mại.

6. Như đã khẳng định, vi phạm cơ bản hợp đồng là một đề tài có nội dung phức

tạp và phạm vi nghiên cứu rất rộng liên quan tới nhiều nội dung phức tạp khác, nên

trong quá trình nghiên cứu, tác giả chưa có điều kiện để giải quyết hết được mà mới

chỉ giới hạn ở phạm vi đối với hợp đồng thương mại, cụ thể hợp đồng mua bán hàng

hóa nói chung, hợp đồng MBHHQT nói riêng. Tác giả coi hướng nghiên cứu tiếp khi

có điều kiện như vi phạm cơ bản hợp đồng dân sự (theo nghĩa hẹp), đơn phương chấm

dứt thực hiện hợp đồng dân sự và hủy bỏ hợp đồng dân sự khi có vi phạm cơ bản.

Page 182: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

177

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Amoussou – Guénou, Roland, Triển vọng phát triển các nguyên tắc pháp luật

hợp đồng SEAN (hoặc Châu Á), Kỷ yếu hội thảo “Hợp đồng Thương mại Quốc

tế”, Nhà Pháp luật Việt – Pháp tổ chức tại Hà Nội, ngày 13, 14/12/2004.

2. Đỗ Minh Ánh, Vấn đề sửa đổi khái niệm mua bán hàng hóa quốc tế trong Luật

thương mại để gia nhập Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán

hàng hóa quốc tế, Tạp chí Luật học số 9/2011.

3. Nguyễn Mạnh Bách, Pháp luật về hợp đồng (lược giải), Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội, 1995.

4. Trần Thị Hòa Bình, Trần Văn Nam, Pháp luật và thông lệ quốc tế, pháp luật

của Việt Nam về thương mại quốc tế, Nxb Lao động – Xã hội, 2006.

5. Báo cáo 350/UBTVQH11 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 18/5/2005 về

việc giải trình, tiếp thu chỉnh lý dự thảo Luật thương mại (sửa đổi) trình Quốc

hội thông qua.

6. Báo cáo số 151/BC-BTP ngày 15/7/2013 của Bộ Tư pháp về Báo cáo tổng kết

thi hành Bộ luật dân sự năm 2005.

7. Bộ luật dân sự năm 2005.

8. Bộ luật dân sự năm 1995.

9. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây

dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến

năm 2020.

10. Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế 2004, Dg:

Nguyễn Minh Hằng, Đào Thu Hiền và các Dgk, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005.

11. Bộ Công thương, Một số điều ước đa phương thường được sử dụng trong

thương mại quốc tế: Công ước Viên năm 1980 của Liên Hợp quốc về hợp đồng

mua bán hàng hóa quốc tế, NXB Đại học Sư Phạm, Hà Nội, 2007.

12. Bộ Tư pháp, Kỷ yếu tập huấn pháp luật hợp đồng, ngày 29-30/6/2006 tại Hà

Nội.

13. Nguyễn Chúng, Kinh nghiệm thực tế Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương

mại – hàng hải, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2008.

14. Công văn 413/VPCP-HTQT ngày 14/1/2013 của Văn phòng Chính phủ về việc

kết quả nghiên cứu gia nhập Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng

hóa quốc tế.

15. Công văn 7587/VPCP-QHQT ngày 22/10/2010 của Văn phòng Chính phủ về

việc nghiên cứu khả năng tham gia Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán

hàng hóa quốc tế.

16. Corine Renault-Brahinsky, Đại cương về pháp luật hợp đồng, Nxb Văn hóa –

Thông tin, Hà Nội, 2002.

17. Trương Văn Dũng, Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc

tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, 2003.

18. Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Ngọc Đào, Luật kinh doanh quốc tế, Nxb Đồng

Nai, 2000.

Page 183: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

178

19. Đỗ Văn Đại và Đỗ Văn Hữu, Nội dung của hợp đồng trong giao dịch dân sự,

Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 01/2006.

20. Đỗ Văn Đại, Vấn đề hủy bỏ, đình chỉ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật

dân sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 3(22)/2004.

21. Đỗ Văn Đại, Vi phạm cơ bản hợp đồng, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số

9/2004.

22. Đỗ Văn Đại, Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng, Nxb

Chính trị - Quốc gia, Hà Nội, 2010.

23. Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng: Bản án và bình luận bản án, Nxb Chính trị -

Quốc gia, Hà Nội, 2013 (tái bản lần thứ tư, tập 1, 2).

24. Đỗ Văn Đại, Mai Hồng Quỳ, Tư pháp quốc tế Việt Nam – Quan hệ dân sự, lao

động, thương mại có yếu tố nước ngoài, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2010.

25. Nguyễn Ngọc Đào, Luật La Mã, Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội, Hà Nội, 1994

26. Nguyễn Bá Diến, Giáo trình Luật thương mại quốc tế, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội, 2005.

27. Lê Thị Nam Giang, Tư pháp quốc tế, Nxb ĐHQG HCM, 2011.

28. Phạm Hoàng Giang, Sự phát triển của pháp luật hợp đồng: Từ nguyên tắc tự

do giao kết hợp đồng đến nguyên tắc công bằng, Tạp chí Nhà nước và pháp

luật,Số 10/2006.

29. Nguyễn Minh Hằng, Hủy hợp đồng do chậm giao hàng, tham khảo tại

http://dddn.com.vn/20100309111513217cat104/huy-hop-dong-do-cham-giao-

hang.htm, truy cập ngày 11/2/2011.

30. Nguyễn Minh Hằng, Vi phạm cơ bản hợp đồng, tham khảo tại

http://dddn.com.vn/2010022311233417cat104/vi-pham-co-ban-hop-dong.htm,

truy cập ngày 11/2/2011.

31. Phan Chí Hiếu, Hoàn thiện chế định hợp đồng, Nghiên cứu Lập pháp, tháng

04/2005.

32. Nguyễn Am Hiểu, Quản Thị Mai Hường, Tìm hiểu pháp luật về hợp đồng mua

bán hàng hóa và đại diện thương mại, Nxb Đà Nẵng, 2000.

33. Nguyễn Đức Hưởng (người dịch), Luật mua bán hàng hóa quốc tế, Nxb Chính

trị - Quốc gia, Hà Nội, 1993.

34. Lê Minh Hùng, Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam,

Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường ĐH Luật Tp.HCM, 2010.

35. Nguyễn Vũ Hoàng, Về các tiêu chí xác định hợp đồng mua bán hàng hóa quốc

tế, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11/2003.

36. Hội đồng Chỉ đạo quốc gia biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005), Từ

điển Bách khoa Việt Nam, tập 4, Nxb.TĐBK.

37. Nguyễn Ngọc Khánh, Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam, Nxb

Tư pháp, Hà Nội,2007.

38. Nguyễn Ngọc Khánh, Giao kết hợp đồng – Một số vấn đề lý luận và thực ti n,

trong quyển “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật hợp đồng ở Việt

Nam hiện nay” (Nguyễn NhưPhát và Lê Thu Thủy - Cb), Nxb. CAND, Hà Nội,

2003.

Page 184: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

179

39. Nguyễn Ngọc Khánh, Thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trên thực tế, Nghiên cứu

Lập pháp, số 02 tháng 02/2007.

40. Luật thương mại năm 2005.

41. Nguyễn Văn Luyện, Dương Anh Sơn, Lê Thị Bích Thọ, Giáo trình “Luật hợp

đồng thương mại quốc tế”, Nxb Đại học quốc gia Tp.HCM, 2005.

42. Ngô Đức Mạnh, Xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm thực thi các cam kết

gia nhập WTO, Nhà nước và Pháp luật, số2 (226)/2007, tr. 18 – 23.

43. Phạm Minh (biên soạn), Luật Thương mại quốc tế, Nxb Thống kê, 2000.

44. Vũ Văn Mẫu, Việt Nam Dân luật - luợc khảo, Quyển II “Nghĩa vụ và khế

ước”, Phần thứ nhất: Nguồn gốc của nghĩa vụ, Nxb. Bộ QGGD, Sài Gòn 1963.

45. Nguyễn Thị Mơ, Giáo trình Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại, NXB

Thông tin và truyền thông, 2009.

46. Phạm Duy Nghĩa, Điều chỉnh thông tin bất cân xứng và quản lý rủi ro trong

pháp luật hợp đồng Việt Nam, trong quyển "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

về pháp luật hợp đồng ở Việt Nam hiện nay", Nguyễn Như Phát và Lê Thị Thu

Thủy (Cb), Nxb. CAND, Hà Nội, 2003.

47. Phạm Duy Nghĩa, Giáo trình Luật kinh tế, Nxb Công an nhân dân, 2011.

48. Nhà pháp luật Việt – Pháp, Các thuật ngữ hợp đồng thông dụng, Nxb Từ điển

bách khoa, 2011. Dg: Nguyễn Minh Hằng.

49. Nhà pháp luật Việt-Pháp, Tọa đàm Luật thương mại (sửa đổi), Tài liệu tham

khảo – lưu hành nội bộ, Hà Nội, 2004.

50. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989.

51. Nguyễn Như Phát, Minh Bạch hóa pháp lật và yêu cầu đặt ra đối với hệ thống

pháp luật trong quá trình hội nhập kinh tế, Nhà nước và Pháp luật, số1

(201)/2005.

52. Hoàng Phê, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 1996.

53. Phòng Thương mại và Công nghiệp, Các quyết định trọng tài quốc tế chọn lọc,

Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2007.

54. Đinh Thị Mai Phương, Thống nhất Luật hợp đồng ở Việt Nam, Nxb Tư pháp,

Hà Nội, 2005.

55. Trần Văn Phước, Vĩnh Bá, Trần Văn Khanh, Phạm Minh Trị, Từ điển Anh-

Việt, Nxb Từ điển Bách khoa, 2002.

56. Quy chế tạm thời số 4794/TN-XNK ngày 31/7/1991 của Bộ Thương nghiệp

(nay là Bộ Công thương) hướng dẫn việc ký kết hợp đồng mua bán ngoại

thương và Quy định số 229/TMDL-XNK ngày 9/4/1992 của Bộ Thương mại

và du lịch về việc ký kết và quản lý hợp đồng mua bán ngoại thương.

57. Raski.J, Các điều kiện giới hạn và mi n trừ trách nhiệm trong hợp đồng quốc

tế, Kỷ yếu Hội thảo Hợp đồng thương mại quốc tế do Nhà Pháp luật Việt –

Pháp tổ chức, 13-14/12/2004.

58. Dương Anh Sơn, Tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương,

Tạp chí Khoa học pháp lý, số 6(25)/2004.

Page 185: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

180

59. Dương Anh Sơn, Cơ sở lý luận và thực ti n của việc điều chỉnh bằng pháp luật

đối với vi phạm hợp đồng khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ. Tạp chí

Nhà nước và pháp luật, số 4/2006.

60. Dương Anh Sơn, Tác động của các hình thức lỗi đến việc xác định trách nhiệm

hợp đồng, Tạp chí KHPL số 1(138)/2007.

61. Lê Minh Tâm (cb), Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội,

2007.

62. Tờ trình số 1456/CP-CP của Chính phủ ngày 5/10/2004 trước Quốc hội về dự

án Luật thương mại (sửa đổi).

63. Bùi Ngọc Toàn, Pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

của Việt Nam, Nhà nước và Pháp luật, số 04/2006.

64. Thông tư 03/2015/TT-BKHĐT ngày 06/05/2015 của Bộ KH&ĐT quy định chi

tiết lập hồ sơ mời thầu xây lắp.

65. Thông tư 05/2015/TT-BKHĐT ngày 16/06/2015 của Bộ KH&ĐT quy định chi

tiết lập hồ sơ mời thầu mua sắm hàng hóa.

66. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Tập 2, Nxb

Công an Nhân dân, Hà Nội, 2005.

67. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, Nxb CAND, Hà Nội,

2001.

68. Trường Đại học Luật Tp.HCM, Giáo trình pháp luật về hợp đồng và bồi

thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam,2013.

69. Từ điền Kinh doanh và quản lý, Nxb Oxford University, tham khảo tại

http://www.oxfordreference.com/view/10.1093/oi/authority.201108030958385

45, truy cập 19/6/2013.

70. Nguyễn Văn Tiến, Cẩm nang tài trợ thương mại quốc tế, Nxb Thống kê, 2008.

71. Vũ Hữu Tửu, Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương, Nxb Giáo dục, 1998.

72. Đào Trí Úc (Cb), Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nước và pháp luật, Nxb.

CTQG, Hà Nội, 1995.

73. Đào Trí Úc, Những nội dung cơ bản của khái niệm hệ thống pháp luật nước ta

và các nguyên tắc lập pháp, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 10, tháng 11/2001.

74. Đào Trí Úc, Quá trình đổi mới hoạt động lập pháp ở nước ta trước yêu cầu hội

nhập quốc tế - khu vực, Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật.

75. Ủy ban Tư vấn về Chính sách Thương mại quốc tế thuộc Phòng Thương mại

và Công nghiệp Việt Nam, Báo cáo nghiên cứu “Đề xuất Việt Nam gia nhập

Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế”, 2010.

76. Vanwijck Alexandre, Điều khoản chấm dứt hợp đồng và điều khoản duy trì

hiệu lực hợp đồng, Kỷ yếu Hội thảo Hợp đồng thương mại quốc tế do Nhà

Pháp luật Việt – Pháp tổ chức, 13-14/12/2004.

77. Võ Khánh Vinh, Một số vấn đề chung về kỹ thuật lập pháp, Tạp chí Nhà nước

và pháp luật, 8/2001.

78. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2006.

Page 186: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

181

79. Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Từ điển

Anh-Việt, Nxb Tp.HCM, 1993.

80. Nguyễn Như Ý, Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, 1998.

B. TÀI LIỆU TIẾNG ANH

81. Alejandro M. Garro, The Gap Filling Role of the UNIDROIT Principles in

International Sales Law: Some Comments on the Interplay between the

Principles and the CISG, 69 Tul.L.Rev. 1149, 1995, tr.1157-1185.

82. Alexander Lorenz, Fundamental Breach under the CISG, Dinslaken,

Germany/Canterbury, England, Pace Essay Submission, 1998, chi tiết tại

http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/biblio/lorenz.html, truy cập 5/4/2012.

83. Alain A. Levasseur, The Civil Code of Quebec and the Vienna Convention on

International Contracts for the Sale of Goods: some Comments, in Conferences

sur le nouveau code civil du Québec (Yvon Blais ed., 1992) 269, 282 cited in

Koch, ‘The Concept of Fundamental Breach of Contract under the United

Nations Convention on Contracts for the International Sale of Goods (CISG)’,

266

84. American Law Institute, Restatement (Second) of Contracts Sec. 241 (1981).

85. Andrew Babiak, Defining "Fundamental Breach" under the United Nations

Convention on Contracts for the International Sale of Goods, 6 Temple Int’l &

Comp. L.J. 113, 1992.

86. Benjamin K.Leisinger, Fundamental Breach considering Non-Conformity of

the Goods, European Law Publishers, 2007.

87. Bernstein Herbert, Understanding the CISG in Europe: a compact guide to the

1980 United Nations Convention on contracts for the International sales of

goods, Kluwer Law International, 2002.

88. Bianca C.M., Bonell M.J, Commentary on the International Sales Law - The

1980 Vienna Sales Convention, Milan, Article 25, 2.2,1987.

89. Bruno Zeller, The Remedy of Fundamental Breach and the United Nations

Convention on the International Sale of Goods (CISG) - A Principles Lacking

Certainty?, (2/2007) 11 Vindobona Journal of International Commercial Law

and Arbitration 219, 226.

90. Bruno Zeller, Fundamental Breach and the CISG - a Unique Treatment or

Failed Experiment? (2004) 8 Vindobona Journal of International Commercial

Law and Arbitration, 89.

91. Bryan, A.Garner, Black’s Law Dictionary,9th

ed., West, 2009.

92. Castellet Lorence, The application of the Vienna Convention in the United

States, RDAI, no5 du 01/06/1999, p.528-595.

93. Chengwei Liu, The Concept of fundamental breach: Perspectives from the

CISG, UNIDROIT Principles and PECL and case law, 20 J.L. & Com. 460,

2005.

94. Chengwei Liu, Remedies for Non-performance – Perspectives from CISG,

UNIDROIT Principles and PECL,2003.

95. Chengwei Liu, Electronic excerpt from The Concept of Fundamental Breach:

Perspectives from the CISG, UNIDROIT Principles and PECL and case law

Page 187: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

182

(2nd ed, 2005) chapter 2.3(d).

96. Clemens Pauly, The Concept of Fundamental Breach as an International

Principle to Create Uniformity of Commercial Law, 19 J.L. & Com. 221

(1999-2000).

97. Comment and Notes to PECL Art. 8:103: Comment C, tham khảo tại

http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/text/peclcomp25.html, truy cập 15/2/2013.

98. Commentary on the Draft Convention on Contracts for the International Sale of

Goods prepared by the Secretariat, Document A/CONF.97/5.

99. Contract law of the People Republic of China 1999.

100. Convention relating to a Uniform Law on the Formation of Contracts for the

International Sale of Goods (ULF,1964).

101. Convention relating to a Uniform Law on the International Sale of Goods

(ULIS, 1964).

102. The Commission of European Contract Law/ edited by Ole Lando, Hugh

Beale, Principle of European contract Law: Parts I and II, 2000, Kluwer Law,

p. 365.

103. David Kelly, Business Law, Cavendish Publishing, UK, 2002.

104. Darren Peacock, Avoidance and the Notion of Fundamental Breach Under the

CISG: An English Perspective (2003) 8 International Trade and Business Law

Review 95, 101.

105. Djakhongir Saidov, The Law of Damages in International Sales: The CISG and

other International Instruments (2008) 102.

106. Enderlein/Maskow, International Sales Law, Art. 25, at 3.4.

107. Eric C.Schneider, The Seller‟s Right to Cure under the Uniform Commercial

Code and CISG, 7 Ariz.J.Int’l & Comp.L. 69,1989.

108. Felemegas, The United Nations Convention on Contracts for the International

Sale of Goods: Article 7 and Uniform Interpretation, in Pace Review of the

Convention on Contracts for the International Sale of Goods (CISG), Kluwer

Law International (2000-2001) 115 – 265.

109. Feltham, The United Nations Convention on Contracts for the International

Sale of Goods, J.Bus.L.346, 1981.

110. Franco Ferarri, Uniform Interpretation of the 1980 Uniform Sales Law, 24 Ga.

J. Int’l & Comp.L. 183, 1994.

111. Franco Ferarri, Recent Development: CISG: Specific Topics of the CISG in

Light of Judicial Application and Scholarly Writing, 15 J.L. & Com. 1. 1995.

112. Franco Ferrari, Fundamental Breach of Contract Under the UN Sales

Convention-- 25 Years of Article 25 CISG, Journal of Law and Commerce,

2006, tham khảo tại http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/biblio/ferrari14.html,

truy cập ngày 28/4/2012.

113. Fritz Enderlein, Dietrich Maskow, International Sales Law: United Nations

Convention on Contracts for the International Sale of Goods, 1992.

114. Grebler E., Fundamental Breach of Contract Under the CISG: A Controversial

Rule, ASIL Proceedings, 2007.

Page 188: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

183

115. Hossam El-Saghir, Fundamental breach: Remarks on the manner in which the

Principles of European Contract Law may be used to interpret or supplement

Article 25 CISG, July 2000, chi tiết tại

http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/text/peclcomp25.html, truy cập 10/7/2012.

116. Hossam El-Saghir, Editorial Remarks, ‘Guide to Article 25: Comparison with

Principles of European Contract Law (PECL)’ (2000) Pace Law School

Institute of International Commercial Law chi tiết tại

http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/text/peclcomp25.html, truy cập 10/7/2013.

117. Harry M. Flechtner, ‘The Several Texts of the CISG in a Decentralised System:

Observations on Translations, Reservations and other Challenges to the

Uniformity Principle in Article 7(1)’, 188.

118. Harry M. Flechtner, ‘Remedies Under the New International Sales Convention:

The Perspective from Article 2 of the U.C.C.’ (1988) 8 Journal of Law and

Commerce 53, 78.

119. Ingeborg Schwenzer, Pascal Hachem, The CISG: Successes and Pitfalls,

American Journal of Comparative Law, vol.57, 2009.

120. International Trade Centre (UNCTAD/WTO) & Ministry of Trade of Vietnam,

Report on key multilateral treaties affecting trade not ratified by Vietnam- A

cost/benefit analysis, March 2007.

121. Jacob Ziegel, The Remedial Provisions in the Vienna Sales Convention: Some

Common Law Prespectives, in: Nina M. Glalston and Hans Smit (eds),

International Sales: The United Nations Convention on Contracts for the

International Sale of Goods (1984).

122. John O. Honnold, The Draft Convention on Contracts for the International

Sale of Goods: An Overview, 27 Am. J. Comp. L. 223, 1979.

123. John O.Honnold, Documentary History of them: Uniform Law for international

sales, Kluwer Law and Taxation Publishers, 1989.

124. John O. Honnold and Harry M. Flechtner (ed), Uniform Law for International

Sales under the 1980 United Nations Convention (4th ed, 2009), Art 25, 279.

125. Katrina Winsor, The Applicability of the CISG to Govern Sales of Commodity

Type Goods (1/2010) 14 Vindobona Journal of International Commercial Law

and Arbitration 83, 102.

126. Leonardo Graffi, Case Law on the Concept of 'Fundamental Breach' in the

Vienna Sales Convention": Revue de droit des affaires

internationales /International Business Law Journal No. 3, 338-349 (Forum

Europeén de la Communication) Paris, 2003.

127. Lookofsky Joseph, Understanding the CISG in the USA: a compact guide to

the 1980 United Nations Convention on contracts for the International sales of

goods, Kluwer Law International, second edition, 2002 .

128. Mapp.W & Nicoll.C, The Vienna Convention on International Sale of Goods:

Obligations under the Contract and Remedies for Breach, N.Z.L.J 316,1993.

129. Melville L.W, The Core of a contract, 19 M.L.R 1956.

Page 189: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

184

130. Michael Bonell, The Unidroit Principles of International Commercial

Contracts and CISG, in Uniform Commercial Law in the Twenty First Century:

Proceedings of the Congress of the United Nations Commission on

International Trade Law, U.N. GAOR Comm. on Int'l Trade L., 25th Sess., at

11 U.N. doc. A/CN.9/SER.D/1, 1992.

131. Michael Wagener, Fundamental Breach: Has the Baby gone out with the

Bathwater?, 29 Tulane Maritime Law Journal Vol.29 2004.

132. Michael Will, in Commentary on the International Sales Law, The 1980

Vienna Sales Convention 3.2.2 (C. Bianca & M. Bonell eds., 1987).

133. Mirghasem Jafarzadeh, Buyer's Right to Withhold Performance and

Termination of Contract: A Comparative Study Under English Law, Vienna

Convention on Contracts for the International Sale of Goods 1980, Iranian and

Shi'ah Law, PhD Project, Shahid Beheshti University, Tehran, Iran December

2001, chi tiết tại http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/biblio/jafarzadeh1.html,

truy cập 5/8/2012.

134. Mo Zhang, Chinese Contract Law: Theory and practice, Martinus Nijhoff

Publishers, Leiden / Boston, 2006.

135. Official Record, Vienna Diplomatic Conference: Summary records of Meetings

of the First Committee (12thmeeting) [15, Mr Hjerner (Sweden)], [23, Mr

Tronning (Denmark)], [30, Mr Bennett (Australia)], [36, Mr Szasz (Hungry)],

[41, Mr Shafik (Egypt)]

http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/firstcommittee/Meeting12.html và A/CONF

97/C. 1/L.104, Official Record, Vienna Diplomatic Conference: Summary

records of Meetings of the First Committee (13th

meeting) [2]

<http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/firstcommittee/Meeting13.html>

136. Official Record A/CONF.97/11, 1980 Vienna Diplomatic Conference: Report

of the First Committee, Consideration 6 chi tiết tại

http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/1stcommittee/summaries25.html.

137. Ogilvie M.H, Fundamental breach excluded but not extinguished: Hunter

engineering v. syncrude Canada, 17 Can. Bus. L.J. 75 1990-1991, 84.

138. Olaf Clausson, Avoidance in Nonpayment Situations and Fundamental Breach

under the 1980 U.N. Convention on Contracts for the International Sale of

Goods, N.Y.L.Sch.J.Int. & Comp.L. 93, 1984.

139. Olga Gonzalez, Remedies Under the U.N. Convention for the International

Sale of Goods, 2 Int’l Tax & Bus.Law. 79, 1984.

140. R. A. Samek, The Relevant Time of Foreseeability of Damages in Contract,

(1964) 38 The Australian Law Journal 129.

141. Peter Schlechtriem, Requirements of Application and Sphere of Applicability of

the CISG, 36 Victoria University of Wellington Law Review 781, 2005.

142. Peter Schlechtriem, Uniform Sales Law - The UN-Convention on Contracts for

the International Sale of Goods (1986), 173-182.

143. Peter Schlechtriem and Petra Butler, UN Law on International Sales: The UN

Convention on International Sale of Goods (2009) 98 .

Page 190: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

185

144. Peter Schlechtriem and Ingeborg Schwenzer (eds), Commentary on the UN

Convention on the International Sale of Goods (CISG) (2nd English ed., 2005,

Art 25 para 3, 284).

145. Peter Schlechtriem, Commentary on the U.N. Convention on the International

Sale of Goods, Oxford University Press, 2005.

146. Peter A. Piliounis, The Remedies of Specific Performance, Price Reduction and

Additional Time (Nachfrist) under the CISG: Are these worthwhile changes or

additions to English Sales Law?, Pace International Law Review, 2000.

147. Peter Huber and Alastair Mullis, The CISG: A new textbook for students and

practitioners (2007) 216.

148. Phanesh Koneru, The International Interpretation of the UN Convention on

Contracts for the International Sale of Goods: An Approach Based on General

Principles, Minnesota Journal of Global Trade, 1997.

149. Restatement (Second) of Contract, Section 235 (2).

150. Robert, William J. & others, Principles of Business Law, 8 th ed., Prentice

Hall, New Jersey 1979.

151. Robert Koch, The Concept of Fundamental Breach of Contract under the

United Nations Convention on Contracts for the International Sale of Goods

(CISG), Pace Review of the Convention on Contracts for the International Sale

of Goods (CISG), Kluwer Law International, 1998.

152. Roberto Martín Paiva, Fundamental Breach under the United Nations

Convention on Contracts for the International Sale of Goods (1980), tham

khảo tại http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/biblio/paiva.html#*, truy cập ngày

28/4/2012.

153. Sale of Goods Act of UK, 1979.

154. Sammuel, Geoffrey, Law of Obligations and legal Remedies, 2nd ed.,

Cavendish, London 2001.

155. Stephen J. Leacock, Fundamental breach of contract and exemption clauses in

Commonwealth Caribbean,4 Anglo-Am. L. Rev. 181 1975.

156. Sweeney, Brendan & Jennifer O’Reilly, Law in Commerce, Butterworths,

Sydney 2001.

157. The Principles of European Contract Law.

158. Trevor Bennett, Anticipatory Breach and Installment Contracts, art.71, in

Commentary on the International Sales Law, the 1980 Vienna Sales

Convention 513, art.71, 3.7 (C.Bianca & M.Bonell eds.,1987).

159. UN Secretariat, Commentary on the Draft Convention on contract for the

international sale of goods, Art. 23, 1979.

160. UN Secretariat, Commentary on the Draft Convention on Contracts for the

Internationl Sale of Goods, New York, 1981.

161. UNCITRAL, Yearbook VIII, 1977, Report of Committee of the Whole I

relating to the draft Convention on the International Sale of Goods’,

http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/legislative/B01-25.html, truy cập 10/7/14.

Page 191: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

186

162. UNCITRAL Secretariat, Explanatory Note by the UNCITRAL Secretariat on

the United Nations Convention on Contracts for the International Sale of

Goods, tham khảo tại http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/text/p23.html, truy

cập ngày 28/4/2012.

163. UNCITRAL, Digest of Case Law on the United Nations Convention on the

Internationl Sale of Goods, United Nations Publication, New York, 2012.

164. Uniform Commercial Code of United State of America (UCC).

165. Ulrich Magnus in Franco Ferrari, Harry M. Flechtner and Ronald A. Brand

(eds), The Draft UNCITRAL Digest and Beyond: Cases, Analysis and the

Unresolved Issues in the U.N. Sales Convention (2004), tr.321.

166. Volker Behr, Interpretive Decisions Applying CISG: Commentary to Journal of

Law and Commerce Case I; Oberlandesgericht Frankfurt a.M., 12 J.L. & Com,

1993.

167. White and Summers, Uniform Commercial Code, West Academic Publishing;

6 edition (January 20, 2010).

168. Walt and Gillette, Sales Law: Domestic and International, Foundation Press; 2

edition (November 24, 2008).

169. Zhang Yuqing, Principles of Interpretation of a Uniform Law and Functions of

Travauz Preparatories, Commentaries and Case Collections for Interpretation

of a Uniform Law, in Uniform Commercial Law in the Twenty First Century:

Proceedings of the Congress of the United Nations Commission on

International Trade Law, U.N. GAOR Comm. on Int’l Trade L., 25th Sess., at

43, U.N. Doc. A/CN.9/SER.D/1.

C. TRANG WEB

170. http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/countries/cntries.html, truy cập ngày

15/3/2015.

171. http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/text/casecit.html, truy cập ngày 15/3/2015.

D. BẢN ÁN, PHÁN QUYẾT

1. Tiếng Việt

172. Bản án số 02/2010/KDTM-ST ngày 12/1/2010 của Tòa án nhân dân Quận 11

Tp.HCM.

173. Bản án số 1743/2007/KDTM-ST ngày 20/9/2007 của Tòa án nhân dân

Tp.HCM.

174. Bản án số 27/2011/KDTM-PT ngày 10/3/2011 của Tòa phúc thẩm, Tòa án

nhân dân tối cao tại Đà Nẵng.

175. Bản án 23/2011/KDTM-ST ngày 30/09/2011 của Tòa án nhân dân Quận 3,

Tp.Hồ Chí Minh.

176. Bản án số 503/2012/KDTM-ST ngày 19/4/2012 của Tòa án nhân dân tối cao

Tp.HCM.

177. Bản án số 15/2014/KDTM-ST ngày 07/04/2014 của Tòa án nhân dân Tp.HCM.

178. Bản án số 59/2013/KDTM-PT ngày 11/01/2013 của Tòa án nhân dân Tp.Hồ

Chí Minh.

179. Bản án số 399/2012/KDTM-ST ngày 29/3/2012 của Tòa án nhân dân Tp.Hồ

Chí Minh.

180. Bản án số 19/2010/KDTM-ST ngày 30/9/2010 của Tòa án nhân dân Quận 3,

Page 192: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

187

Tp.Hồ Chí Minh.

181. Bản án số 24/2011/KDTM-ST ngày 30/9/2011 của Tòa án nhân dân Quận 3,

Tp.Hồ Chí Minh.

182. Bản án số 1592/2011/KDTM-PT ngày 28/12/2011 của Tòa án nhân dân Tp.Hồ

Chí Minh.

2. Tiếng Anh

183. Australia 17 November 2000 Supreme Court of Queensland (Downs

Investments v. Perwaja Steel), tham khảo tại

http://cisgw3.law.pace.edu/cases/001117a2.html, truy cập 15/2/2013.

184. B.W.I.A v. Bart. (1966) 11 W.I.R.378, 413.

185. Chanter v. Hopkins (1838) 4 M & W 399.

186. China 10 May 2005 CIETAC Arbitration proceeding (Hat case), tham khảo tại

http://cisgw3.law.pace.edu/cases/050510c1.html, truy cập ngày 15/4/2012.

187. China 12 February 1999 CIETAC Arbitration proceeding (Chrome plating

production line equipment case), tham khảo tại

http://cisgw3.law.pace.edu/cases/990212c1.html, truy cập ngày 12/4/2012.

188. China 14 January 2004 CIETAC Arbitration proceeding (Printing machine

case), tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/040114c1.html, truy cập

ngày 5/5/2012.

189. China 16 December 1997 CIETAC Arbitration proceeding (Hot-dipped

galvanized steel coils case), tham khảo tại

http://cisgw3.law.pace.edu/cases/971216c1.html, truy cập 5/5/2012.

190. China 18 September 2006 CIETAC Arbitration proceeding (Polyester spinning

machine case), tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/060918c1.html,

truy cập ngày 15/2/2013.

191. China 21 July 1997 CIETAC Arbitration proceeding (Yam-dyed fabric case),

tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/970721c1.html, truy cập ngày 15/2/2013.

192. China 22 March 2001 CIETAC Arbitration proceeding (Mung bean case),

tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/010322c1.html , truy cập ngày

15/4/2012.

193. China 25 December 2008 Shanghai First Intermediate People's Court [District

Court] (Shanghai Anlili International Trading Co. Ltd. v. J & P Golden Wings

Corp.), tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/081225c1.html, truy

cập ngày 15/4/2012.

194. China 26 June 2003 CIETAC Arbitration proceeding (Alumina case), tham

khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/030626c1.html, truy cập ngày

15/2/2013.

195. China 29 March 1996 CIETAC Arbitration proceeding (Caffeine case), tham

khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/960329c1.html, truy cập 15/2/2013.

196. China 30 January 1996 CIETAC Arbitration proceeding (Compound fertilizer

case), tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/960130c1.html , truy cập

ngày 15/4/2012.

197. China 31 December 1999 CIETAC Arbitration proceeding (Steel coil case),

tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/991231c1.html, truy cập ngày

15/4/2012.

198. China 31 May 1996 CIETAC Arbitration proceeding (Children’s jackets case),

tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/960531c1.html, truy cập ngày

Page 193: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

188

15/2/2013.

199. China 4 April 1997 CIETAC Arbitration proceeding (Black melon seeds case),

tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/970404c1.html, truy cập ngày

15/2/2013.

200. China 4 February 2002 CIETAC Arbitration proceeding (Styrene monomer

case), tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/020204c1.html, truy cập

ngày 15/4/2012.

201. China 5 August 1997 CIETAC Arbitration proceeding (Cold-rolled coils case),

tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/970805c1.html, truy cập ngày

15/2/2013.

202. China 6 February 1997 CIETAC Arbitration Proceeding (Silicon-carbide

case), tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/970206c1.html , truy cập

ngày: 15/4/2012.

203. China 6 January 1999 CIETAC Arbitration proceeding (Australian raw wool

case), tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/990106c1.html, truy cập

ngày 15/2/2013.

204. China 7 April 2005 CIETAC Arbitration proceeding (Cotton gin motes case),

tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/050407c1.html, truy cập ngày

6/3/2012.

205. China 8 April 1999 CIETAC Arbitration proceeding (New Zealand raw wool

case), tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/990408c1.html, truy cập

ngày 25/4/2012.

206. China 8 March 1996 CIETAC Arbitration proceeding (Horsebean case), tham

khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/960308c2.html, truy cập ngày

15/2/2013.

207. China April 2006 CIETAC Arbitration proceeding (Mono ethylene glycol

case), tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/060400c2.html, truy cập

ngày 15/2/2013.

208. China December 2006 CIETAC Arbitration proceeding (Automobile case),

tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/061200c1.html, truy cập ngày

15/4/2012.

209. China December 2006 CIETAC Arbitration proceeding (Rabbit skin case),

tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/061200c2.html , truy cập ngày

15/4/2012.

210. China February 2006 CIETAC Arbitration proceeding (Fluorite case), tham

khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/060200c1.html, truy cập ngày

15/2/2013.

211. China May 2006 CIETAC Arbitration proceeding (Chemicals case), tham khảo

tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/060500c3.html, truy cập ngày 15/2/2013.

212. China, Arbitration award of June 1999 (Peanut kernel case), tham khảo tại

http://cisgw3.law.pace.edu/cases/990600c1.html, truy cập ngày 15/2/2013.

213. China 18 April 2008 CIETAC Arbitration proceeding (PTA powder case),

tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/080418c1..html, truy cập

15/2/2013.

214. China 24 July 2007 CIETAC Arbitration proceeding (Flexo label printing

machine case), http://cisgw3.law.pace.edu/cases/070724c1.html, truy cập

15/2/2013.

Page 194: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

189

215. France 22 February 1995 Appellate Court Grenoble (BRI Production

"Bonaventure" v. Pan African Export), tham khảo tại

http://cisgw3.law.pace.edu/cases/950222f1.html, truy cập 15/2/2013.

216. France 23 January 1996 Supreme Court (Sacovini/M Marrazza v. Les fils de

Henri Ramel), tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/960123f1.html,

truy cập ngày 12/5/2012.

217. France 26 April 1995 Appellate Court Grenoble (Marques Roque Joachim v.

Manin Rivière), tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/950426f2.html,

truy cập ngày 15/2/2013.

218. France 21 October 1999 Appellate Court Grenoble (Calzados Magnanni v.

Shoes General International), tham khảo tại

http://cisgw3.law.pace.edu/cases/991021f1.html, truy cập 15/2/2013.

219. Germany 1 February 1995 Appellate Court Oldenburg (Furniture case), tham

khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/950201g1.html, truy cập ngày

16/2/2013.

220. Germany 11 April 2005 Landgericht [District Court] Frankfurt (Used shoes

case), tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/050411g1.html, truy cập

ngày 23/6/2012.

221. Germany 12 October 2000 District Court Stendal (Granite rock case), tham

khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/001012g1.html, truy cập ngày

22/6/2012.

222. Germany 14 January 1994 Appellate Court Düsseldorf (Shoes case), tham khảo

tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/940114g1.html, truy cập 15/2/2013

223. Germany 14 October 2002 Appellate Court Köln (Designer clothes case), tham

khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/021014g1.html, truy cập ngày

23/6/2012.

224. Germany 15 September 1994 District Court Berlin (Shoes case), tham khảo tại

http://cisgw3.law.pace.edu/cases/940915g1.html, truy cập ngày 15/2/2013.

225. Germany 15 September 2004 Appellate Court München (Furniture leather

case), tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/040915g2.html, truy cập

ngày 22/6/2012.

226. Germany 17 September 1991 Appellate Court Frankfurt (Shoes case), tham

khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/910917g1.html, truy cập 15/2/2013.

227. Germany 18 January 1994 Appellate Court Frankfurt (Shoes case), tham khảo

tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/940118g1.html, truy cập ngày 22/6/2012.

228. Germany 21 April 2004 Appellate Court Düsseldorf [15 U 88/03] (Mobile car

phones case), tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/040421g3.html,

truy cập ngày 22/6/2012.

229. Germany 21 December 1990 Lower Court Ludwigsburg (Clothes case), tham

khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/901221g1.html, truy cập ngày

22/6/2012.

230. Germany 21 November 2007 Appellate Court Koblenz (Shoes case), tham

khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/071121g1.html, truy cập ngày

23/6/2012.

231. Germany 24 April 1997 Appellate Court Düsseldorf (Shoes case), tham khảo

tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/970424g1.html , truy cập ngày 22/6/2012.

232. Germany 25 January 2008 Appellate Court Hamburg (Café inventory case),

Page 195: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

190

tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/080125g1.html, truy cập ngày

22/6/2012.

233. Germany 27 March 1996 District Court Oldenburg (Clothes case), tham khảo

http://cisgw3.law.pace.edu/cases/960327g1.html, truy cập ngày 22/6/2012.

234. Germany 28 February 1997 Appellate Court Hamburg (Iron molybdenum

case), tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/970228g1.html, truy cập

15/2/2013.

235. Germany 29 December 1998 Hamburg Arbitration proceeding (Cheese case),

tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/981229g1.html, truy cập

15/2/2013.

236. Germany 29 November 2005 District Court München (Frozen vegetable case),

tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/051129g1.html, truy cập ngày

22/6/2012.

237. Germany 3 April 1996 Supreme Court (Cobalt sulphate case), tham khảo tại

http://cisgw3.law.pace.edu/cases/960403g1.html, truy cập ngày 23/6/2012.

238. Germany 31 January 1997 Appellate Court Koblenz (Acrylic blankets case),

tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/970131g1.html, truy cập ngày

15/2/2013.

239. Germany 5 April 1995 District Court Landshut (Sport clothing case), tham

khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/950405g1.html , truy cập ngày

23/6/2012.

240. Germany 24 May 1995 Appellate Court Celle (Used printing press case), tham

khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/950524g1.html, truy cập 15/2/2013.

241. Germany 24 September 1998 District Court Regensburg (Cloth case),

http://cisgw3.law.pace.edu/cases/980924g1.html, truy cập 15/2/2013.

242. Greece 2009 Decision 4505/2009 of the Multi-Member Court of First Instance

of Athens (Bullet-proof vest case), tham khảo tại

http://cisgw3.law.pace.edu/cases/094505gr.html, truy cập ngày 15/2/2013.

243. Hong Kong Fir Shipping Co.Ltd. v. Kawasaki Kisen Kaisha Ltd. [1962] 2 Q.

B. 26; [1962] All E.R. 474.

244. Hungary 25 May 1999 Budapest Arbitration proceeding Vb 97142 (Sour

cherries case), tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/990525h1.html,

truy cập 15/2/2012.

245. Stockholm Chamber of Commerce Arbitration Award of 5 June 1998 (Beijing

Light Automobile Co. v. Connell), tham khảo tại

http://cisgw3.law.pace.edu/cases/980605s5.html, truy cập 15/2/2013.

246. ICC Arbitration Case No. 10274 of 1999 (Poultry feed case), tham khảo tại

http://cisgw3.law.pace.edu/cases/990274i1.html, truy cập 15/2/2013.

247. ICC Arbitration Case No. 9187 of June 1999 (Coke case),

http://cisgw3.law.pace.edu/cases/999187i1.html, truy cập 15/2/2013.

248. Italy 11 January 2005 District Court Padova (Ostroznik Savo v. La Faraona

soc. coop. a.r.l.), tham khảo tại

http://cisgw3.law.pace.edu/cases/050111i3.html, truy cập ngày 15/4/2012.

249. Kenyon, Son & Craven v. Baxter Hoare [1971] 2 All E.R.708,720.

250. Poland 11 May 2007 Supreme Court of Poland (Shoe leather case),

http://cisgw3.law.pace.edu/cases/070511p1.html, truy cập 15/2/2013.

251. Spain 3 November 1997 Appellate Court Barcelona (Rolled steel case), tham

Page 196: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

191

khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/971103s4.html, truy cập 15/3/2013.

252. Suisse Atlantique Societe d’Armement Martime S.A. v. N.V. Rotterdamshe

Kolen Centrale [1966] 2 All. E.R. 61, 86.

253. Switzerland 18 May 2009 Bundesgericht [Federal Supreme Court] (Packaging

machine case), tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/090518s1.html,

truy cập ngày 12/6/2012.

254. Switzerland 19 December 1995 Appellate Court Thurgau (Cloth case) tham

khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/951219s1.html, truy cập ngày

15/3/2013.

255. Switzerland 26 July 2007 Canton Appellate Court Jura (Industrial furnace

case), tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/070726s1.html, truy cập

ngày 15/2/2013.

256. Switzerland 27 April 2007 Canton Appellate Court Valais (Oven case), tham

khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/070427s1.html, truy cập ngày

15/2/2013.

257. Switzerland 28 October 1998 Supreme Court (Meat case), tham khảo tại

http://cisgw3.law.pace.edu/cases/981028s1.html.

258. Switzerland 30 August 2007 District Court Zug (GMS modules case), tham

khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/070830s1.html, truy cập ngày

15/2/2013.

259. Switzerland 31 May 1996 Zürich Arbitration proceeding (Soinco v. NKAP),

tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/960531s1.html, truy cập

15/2/2013.

260. Switzerland 5 February 1997 Commercial Court Zürich (Sunflower oil case),

tham khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/970205s1.html, truy cập

15/2/2013.

261. U.G.S. Finance Ltd. v. National Mortgage Bank of Greece, [1964] 1 Lloyd’s

Rep. 446.

262. Ukraine 5 July 2005 Arbitration proceeding (Medical equipment case), tham

khảo tại http://cisgw3.law.pace.edu/cases/050705u5.html, truy cập ngày

15/2/2013.

263. United States 11 June 2003 Federal Appellate Court [5th Circuit] (BP Oil

International v. Empresa Estatal Petroleos de Ecuador) chi tiết tại

http://cisgw3.law.pace.edu/cases/030611u1.html, truy cập 12/6/2012.

264. United States 16 April 2008 Federal District Court [New York] (Macromex Srl.

v. Globex International, Inc.), tham khảo tại

http://cisgw3.law.pace.edu/cases/080416u1.html, truy cập ngày 15/2/2013

265. United States 29 May 2009 Federal District Court [New York] (Doolim Corp.

v. R Doll, LLC, et al.) , tham khảo tại

http://cisgw3.law.pace.edu/cases/090529u1.html, truy cập 15/2/2013.

266. United States 6 December 1995 Federal Appellate Court [2nd Circuit] (Delchi

Carrier v. Rotorex) , tham khảo tại

http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/wais/db/cases2/951206u1.html, truy cập

ngày 21/4/2013.

Page 197: I H C LU T TP.H CHÍ MINHºn-án-Vi-phạm-hợp...bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp.hỒ chÍ minh vÕ sỸ mẠnh vi phẠm cƠ bẢn hỢp ĐỒng

192

NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ

1. Võ Sỹ Mạnh, Vi phạm cơ bản hợp đồng trong pháp luật Việt Nam: một số bất

cập và định hướng hoàn thiện, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 67(06/2014), tr.69-

78.

2. Võ Sỹ Mạnh, Bàn về khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo Luật thương mại

Việt Nam năm 2005, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8(304)/2013, tr.41-47.

3. Võ Sỹ Mạnh, Luật áp dụng “non-state law” cho hợp đồng thương mại quốc tế,

Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9(293)/2012, tr.55-59.

4. Võ Sỹ Mạnh, Section 3.1, 3.3, Chapter 5 “Rules governing international Sales

of Goods”, Hanoi Law University, Textbook “International Trade and Business

Law”, The People’s Public Security Publishing House, 2012, tr.354-373.

5. Võ Sỹ Mạnh, Một số căn cứ xác định vi phạm cơ bản theo Công ước viên năm

1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Tạp chí Kinh

tế đối ngoại, số 40/2010, tr.54-62.