TIN DB/cchc... · 2017-10-08 · TIN NỔI BẬT CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH BẢN TIN CẢI CÁCH...
Transcript of TIN DB/cchc... · 2017-10-08 · TIN NỔI BẬT CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH BẢN TIN CẢI CÁCH...
TIN NỔI BẬT CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Tiếp đó là chủ trương, giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách chế độ công
vụ, công chức trong lĩnh vực quản lý; tổ chức lại mô hình ban cán sự đảng và đảng ủy cơ
quan bộ, cơ quan ngang bộ bảo đảm lãnh đạo toàn diện, xuyên suốt, có hiệu quả; đổi mới tổ
chức và cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; đẩy mạnh xã hội hóa cung ứng
dịch vụ công thuộc bộ.
Ngoài các nội dung nêu trên, theo thông lệ, tại Hội nghị vào tháng 10 hàng năm, Ban Chấp
hành Trung ương sẽ thảo luận, cho ý kiến về tình hình kinh tế - xã hội năm nay và dự kiến kế
hoạch phát triển năm tới.
Nguồn: baodautu.vn
CHÍNH PHỦ YÊU CẦU CÁC BỘ
XÓA BỎ ÍT NHẤT 1/3 ĐIỀU KIỆN KINH DOANH
Tại Nghị quyết số 98/NQ-CP ban hành ngày 3/10 của Chính phủ tiếp tục dành sự quan tâm
đặc biệt cho việc cải cách các quy định về điều kiện kinh doanh.
Cụ thể, Nghị quyết xác định việc “bãi bỏ các rào cản, quy định điều kiện kinh doanh không
cần thiết, bất hợp lý, mở rộng khả năng tham gia thị trường, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, bình
đẳng” là một trong 5 nhiệm vụ chủ yếu để phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan
trọng của nền kinh tế.
Chính phủ giao các bộ, cơ quan tiếp tục rà soát, đánh giá, đề xuất bãi bỏ ít nhất từ 1/3 đến 1/2
số điều kiện kinh doanh hiện hành trong lĩnh vực quản lý và thủ tục hành chính, đang gây cản
trở, khó khăn cho hoạt động đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao nhiệm vụ chủ trì, khẩn trương xây dựng Nghị định về
kiểm soát và nâng cao chất lượng điều kiện đầu tư kinh doanh, trình Chính phủ trong tháng
12/2017.
Bộ Tư pháp chủ trì, kiểm soát chặt chẽ việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy
định điều kiện kinh doanh trái thẩm quyền.
Cải cách toàn diện các quy định về điều kiện kinh doanh là yêu cầu được Chính phủ đặt ra
trong vài năm qua, nhưng thời gian gần đây nhiệm vụ này được đặc biệt quan tâm.
Chỉ tính từ đầu tháng 7 tới cuối tháng 9 vừa qua, Chính phủ đã liên tiếp ban hành 4 Nghị
quyết trong đó yêu cầu các bộ rà soát, loại bỏ các điều kiện kinh doanh bất hợp lý. Đó là Nghị
quyết phiên họp thường kỳ các tháng 6, 7, 8 và cả Nghị quyết phiên họp Chính phủ chuyên đề
xây dựng pháp luật ngày 22/8.
TIN NỔI BẬT CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Trong đó Nghị quyết tháng 7 giao rõ nhiệm vụ cho các Bộ rà soát các điều kiện kinh doanh
theo nguyên tắc thị trường của OECD, đề xuất bãi bỏ các điều kiện hạn chế cạnh tranh.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã bày tỏ sốt ruột với các thành viên Chính phủ:
“Giấy phép kinh doanh rất nhiều, người ta kêu nhiều lắm, cần rà lại. Đây cũng là khâu phát sinh
nhiều vấn đề phức tạp”.
Trong tháng 9 vừa qua, một sự kiện được dư luận hết sức chú ý và hoan nghênh là việc Bộ
Công Thương lên phương án cắt bỏ 675 điều kiện kinh doanh thuộc các lĩnh vực quản lý. Tại
phiên họp Chính phủ ngày 3/10 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tiếp tục đánh
giá cao động thái này của Bộ Công Thương và cho rằng đây là “bài học chung cho các Bộ”.
Cũng tại phiên họp, nhiều Bộ trưởng đã nêu rõ quyết tâm cải cách.
Nguồn: baochinhphu.vn
VIỆC XỬ LÝ CÁN BỘ SAI PHẠM
KHÔNG CÓ VÙNG CẤM
Ngày 3/10, tại cuộc họp báo Chính phủ thường kỳ, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính
phủ Mai Tiến Dũng cho biết không có vùng cấm trong việc xử lý cán bộ sai phạm, ngay cả cán
bộ đã về hưu vẫn phải bị kỷ luật.
“Khi phát hiện các vụ việc thì phải xác minh và kết luận trách nhiệm các tổ chức, cá nhân có
sai phạm. Ngay cả cán bộ đã về hưu vẫn xem xét kỷ luật và các vấn đề này đều được công khai”
- Bộ trưởng Mai Tiến Dũng nói.
Như vậy, niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân với Đảng, với Nhà nước sẽ rất tốt, tin
tưởng tuyệt đối sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước…
Nguồn: baochinhphu.vn
BAN TỔ CHỨC TRUNG ƯƠNG:
KHÔNG BỔ NHIỆM CÁN BỘ
BẰNG LẤY PHIẾU TÍN NHIỆM
Ông Dương Minh Đức, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Ban Tổ chức Trung ương cho biết, từ
nay trở đi sẽ không bổ nhiệm cán bộ bằng lấy phiếu tín nhiệm tại Ban Tổ chức Trung ương mà sẽ
thông qua thi tuyển. Đây là cách thức đổi mới nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, từng
bước đổi mới quy trình bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý.
TIN NỔI BẬT CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Ban Tổ chức Trung ương cho biết, việc thi tuyển sẽ thực hiện theo quy chế thi tuyển, còn hồ
sơ bổ nhiệm cán bộ vẫn phải đầy đủ theo quy định như lý lịch, sức khỏe, kê khai tài sản… “Quy
trình bổ nhiệm thì vẫn như cũ, chỉ có thay đổi là thay vì lấy phiếu tín nhiệm thì nay sẽ tổ chức thi
tuyển. Người được điểm cao nhất là hội đủ điều kiện thì sẽ được bổ nhiệm làm lãnh đạo”.
Theo Ông Dương Minh Đức, tất cả những người trúng tuyển và được bổ nhiệm đều phải nỗ
lực làm tốt công việc, bởi nếu không họ sẵn sàng sẽ bị điều chuyển, thay đổi.
Nguồn: tienphong.vn
SẼ GIẢM 240.000 BIÊN CHẾ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP?
Sẽ tinh giản chức danh kế toán, y tế học đường, tài xế, bảo vệ, nhân viên phục vụ để các đơn
vị sự nghiệp công lập tự cân đối kinh phí hoặc thuê ngoài.
Với mục tiêu nêu trên, Ban cán sự đảng Chính phủ đề xuất một số chính sách cứng rắn,
trước hết kiểm soát chặt việc lập mới đơn vị sự nghiệp công lập. Chẳng hạn, giống kiểm soát
giấy phép con thì văn bản pháp luật chuyên ngành không được cài cắm việc lập, mở rộng cơ
cấu tổ chức, bộ máy các đơn vị sự nghiệp công lập. Nếu nhất thiết phải lập mới thì đơn vị đó
phải tự bảo đảm kinh phí.
Đồng thời, hệ thống này sẽ được sắp xếp lại theo hướng một đơn vị sự nghiệp công lập có
thể cung ứng nhiều dịch vụ cùng loại, qua đó khắc phục chồng chéo, dàn trải, trùng lặp chức
năng, nhiệm vụ. Đẩy mạnh xã hội hóa, thu hút đầu tư tư nhân, bảo đảm công bằng, bình đẳng
giữa các đơn vị sự nghiệp công lập với ngoài công lập. Chuyển các đơn vị sự nghiệp đủ điều
kiện thành công ty cổ phần.
Chính phủ đặt mục tiêu cụ thể: Từ nay đến hết nhiệm kỳ 2021, giảm 10% đầu mối đơn vị sự
nghiệp công lập và giảm tối thiểu 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương ngân sách trong khu vực
này. Phấn đấu nâng số đơn vị tự chủ tài chính lên 10%. Trong thời gian này phải hoàn thành lộ
trình tính giá dịch vụ với một số lĩnh vực cơ bản như y tế, giáo dục. Chỉ tiêu này cũng được đặt
ra cho giai đoạn tiếp theo, đến năm 2025 và 2030.
Với mục tiêu này, trong vòng bốn năm tới, ít nhất 240.000 lao động trong các đơn vị sự
nghiệp sẽ phải chuyển ra ngoài hoặc thay đổi chế độ từ hưởng lương ngân sách sang ký hợp
đồng với đơn vị sử dụng lao động.
Nguồn: plo.vn
TIN NỔI BẬT CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
ĐỔI MỚI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
LÀ HẾT SỨC CẦN THIẾT
Việc đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp công lập là hết sức cần thiết, có ý nghĩa chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, nhân văn hết
sức sâu sắc, góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước nhanh và bền vững theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh quan điểm trên trong phát biểu khai mạc Hội
nghị Trung ương 6 (khóa XII) khi đề cập đến nội dung về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và
quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều
văn bản quan trọng và tích cực lãnh đạo, chỉ đạo toàn hệ thống chính trị tổ chức thực hiện nhiều
chủ trương, chính sách, biện pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công
lập, đạt được những kết quả bước đầu quan trọng.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém, gây bức xúc xã hội và không ít những khó khăn,
thách thức phải vượt qua, nhất là trong việc tổ chức lại và đổi mới cơ chế, chính sách nhằm phát
huy tốt hơn trí tuệ và sự cống hiến của đông đảo đội ngũ trí thức, các chuyên gia, nhà khoa học
và lao động kỹ thuật chất lượng cao trong lĩnh vực này, nâng cao chất lượng dịch vụ công, đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân; đồng thời góp phần giải quyết vấn đề tổ chức, biên
chế, cải cách chế độ tiền lương của toàn hệ thống chính trị.
Cho đến nay, chưa kể đến tổ chức, biên chế trong công an, quân đội và khu vực doanh
nghiệp nhà nước, cả nước đã có khoảng 58.000 đơn vị sự nghiệp công lập với 2,5 triệu biên
chế; giữ vai trò chủ đạo, cung cấp hầu hết dịch vụ sự nghiệp công, liên quan đến mọi người,
mọi nhà và toàn xã hội như: dịch vụ y tế, giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ, văn hoá, thể
dục thể thao...
Vì vậy, việc đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động của các đơn
vị sự nghiệp công lập là hết sức cần thiết, có ý nghĩa chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, nhân văn
hết sức sâu sắc, góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước nhanh và bền vững theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta.
Từ sự phân tích, nhận định như trên, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị Trung ương tập
trung phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện tình hình, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm.
Chú ý phân tích sâu về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tiếp tục đẩy mạnh đổi mới các đơn vị sự
nghiệp công lập cũng như đổi mới doanh nghiệp nhà nước, cần được tiến hành đồng bộ, quyết
liệt nhưng thận trọng, vững chắc và đặt trong tổng thể tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị; sự cần thiết phải đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ công (xã hội hoá nhưng không
TIN NỔI BẬT CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
thương mại hoá), phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, hội nhập
quốc tế.
Đồng thời, xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ
của nhân dân; vai trò, vị trí của các đơn vị sự nghiệp công lập trong điều kiện phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Từ đó, đề ra quan điểm, mục tiêu và định hướng tiếp tục đẩy mạnh đổi mới tổ chức, nâng cao
chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập gắn với bảo đảm ổn
định chính trị, xã hội nói chung và từng ngành, lĩnh vực cụ thể nói riêng.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng lưu ý cần chú ý kế thừa, phát huy những kết quả, thành
tựu đã đạt được; căn cứ vào thực tế và trình độ phát triển của nước ta để rà soát, bổ sung, hoàn
thiện đồng bộ hệ thống các cơ chế, chính sách, có tính khả thi cao, nhất là các cơ chế, chính sách
mới, có tính đột phá.
Nguồn: baochinhphu.vn
CHI TIÊU CÔNG TĂNG CAO DO KỶ LUẬT KÉM,
HỘI HỌP, NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI NHIỀU
“Chi thường xuyên tăng cao một phần là do kỷ luật tài chính kém, chi cho hội họp, nghiên
cứu nước ngoài mang lại hiệu quả gì?” - chuyên gia Lê Đăng Doanh thẳng thắn đặt vấn đề khi
được hỏi về báo cáo đánh giá chi tiêu công tại Việt Nam do Bộ Tài chính và Ngân hàng Thế giới
công bố ngày 3/10.
Theo đó, tỉ lệ nợ công trên GDP của Việt Nam tăng từ 51,7% năm 2010 lên 61% năm 2015,
trong đó nợ Chính phủ chiếm 49,2%, nợ Chính phủ bảo lãnh chiếm 10,9% và nợ chính quyền địa
phương khoảng 0,9%.
Theo báo cáo này, dù nợ công vẫn nằm trong ngưỡng cho phép nhưng cán cân tài chính hiện
đang phải đối mặt với nhiều rủi ro lớn vì bội chi ngân sách hiện đang ở mức cao, bình quân giai
đoạn 2011 - 2015 là khoảng 5,6% GDP.
Đánh giá về vấn đề này, chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh cho rằng bên cạnh việc tăng
nhanh biên chế, kỷ luật tài chính cũng là vấn đề đáng lưu tâm khi nhiều địa phương mạnh tay chi
cho hội họp, đào tạo nghiên cứu ở nước ngoài một cách không thực chất. Đây cũng được cho là
một trong những yếu tố khiến chi cho giáo dục đào tạo tăng. Bên cạnh đó, theo chuyên gia này,
thói quen “xài sang” của quan chức cũng đẩy các chi phí công lên…
Nguồn: laodong.com.vn
TIN NỔI BẬT CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
ĐÃ TỚI LÚC BỎ LƯƠNG TỐI THIỂU?
Mới đây, Hội đồng Tiền Lương Quốc gia thống nhất mức đề xuất tăng lương tối thiểu vùng
năm 2018, với mức tăng bình quân 6,5% so với năm 2017. Sau đó, Bộ Lao động – Thương binh
và Xã hội có văn bản trình Thủ tướng Chính phủ xem xét thông qua phương án tăng lương này.
Một số chuyên gia cho rằng, lương tối thiểu hiện không còn cần thiết, cản trở phát triển nên
cần nghiên cứu bỏ quy định này và thay bằng cơ chế khác. Tuy nhiên, đại diện cơ quan quản lý
nhà nước vẫn giữ quan điểm không thể bỏ quy định về lương tối thiểu.
Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Doãn Mậu Diệp cho biết, tiền lương tối
thiểu như công cụ để đảm bảo an sinh xã hội, áp dụng cho lao động bình thường trong điều kiện
làm việc bình thường. Còn đối với thang bảng lương tại doanh nghiệp là việc giới chủ đàm phán
với công đoàn. Hiện nay, trên thế giới vẫn có hơn 100 nước áp dụng cơ chế thỏa thuận lương tối
thiểu hằng năm.
Nguồn: tienphong.vn
KIỂM TRA CÔNG TÁC CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
TẠI TỈNH NAM ĐỊNH
Chiều ngày 05/10, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Trọng Thừa, Phó Trưởng ban Ban Chỉ
đạo Cải cách hành chính của Chính phủ dẫn đầu Đoàn công tác của Ban Chỉ đạo Cải cách hành
chính của Chính phủ đã có buổi làm việc và kiểm tra công tác cải cách hành chính tại UBND
tỉnh Nam Định.
Trên cơ sở báo cáo Giám đốc Sở Nội vụ tỉnh Nam Định Vũ Văn Rung về tình hình triển khai
và kết quả công tác cải cách hành chính (CCHC) 8 tháng đầu năm 2017 của tỉnh Nam Định, Thứ
trưởng Nguyễn Trọng Thừa ghi nhận và đánh giá cao kết quả CCHC của tỉnh Nam Định, đặc
biệt đánh giá cao vai trò của UBND tỉnh và cá nhân đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh đã trực tiếp
chỉ đạo, điều hành công tác CCHC. Với 05 điểm nổi bật của UBND tỉnh được Thứ trưởng
Nguyễn Trọng Thừa chỉ ra, đó là: 1. Công tác chỉ đạo, điều hành; 2. Kinh phí đầu tư được quan
tâm; 3. Tổ chức bộ máy được kiện toàn, sắp xếp tinh gọn, hợp lý; 4. Việc ứng dụng công nghệ
được quan tâm đầu tư, đặc biệt tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính;
5. Chỉ số PAR Index năm 2016 đã cải thiện đáng kể so với năm 2015 (từ vị trí 47/63 năm 2015
lên vị trí 40/63 năm 2016).
Thứ trưởng Nguyễn Trọng Thừa đề nghị UBND tỉnh Nam Định cần chú trọng hơn trong
công tác chỉ đạo, kiểm tra CCHC, tháo gỡ vướng mắc trong quy trình, thủ tục, tạo môi trường
TIN NỔI BẬT CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
thông thoáng giúp doanh nghiệp và người dân phát triển sản xuất, kinh doanh. Đảm bảo quy
trình, thời gian giải quyết các TTHC liên quan đến các tổ chức, doanh nghiệp và công dân; hạn
chế tối đa việc xử lý hồ sơ trễ hạn. Trong trường hợp thời gian giải quyết bị kéo dài so với quy
định, các cơ quan, đơn vị cần thông báo công khai, kịp thời cho tổ chức, doanh nghiệp và công
dân. Đề nghị các cơ quan, đơn vị phải gửi thư xin lỗi tổ chức, doanh nghiệp, công dân khi các
thủ tục, hồ sơ đến hẹn trả mà chưa có kết quả.
Thứ trưởng Nguyễn Trọng Thừa cũng đề nghị trong giao ban hàng tháng của UBND tỉnh cần
có chuyên đề về CCHC. Thông tin, tuyên truyền về công tác CCHC nhiều hơn nữa để cán bộ,
công chức, viên chức, người dân và doanh nghiệp hiểu, hợp tác và ủng hộ. Đối với các chỉ số
thành phần trong PAR Index có điểm thấp, cần tổ chức xem xét, phân tích, tìm nguyên nhân và
đưa ra các giải pháp khắc phục.
Buổi sáng cùng ngày, đồng chí Phạm Minh Hùng, Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo Cải cách
hành chính của Chính phủ, Vụ trưởng Vụ Cải cách hành chính, Bộ Nội vụ dẫn đầu Đoàn công
tác đã có buổi làm việc và kiểm tra công tác CCHC tại UBND xã Việt Hùng, UBND thị trấn Cổ
Lễ thuộc huyện Trực Ninh và UBND huyện Trực Ninh.
Thanh Tuấn – Cổng thông tin điện tử Bộ Nội vụ
ĐOÀN KIỂM TRA BAN CHỈ ĐẠO
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CỦA CHÍNH PHỦ
LÀM VIỆC TẠI TỈNH BÌNH THUẬN
Chiều 03/10, Đoàn kiểm tra Ban Chỉ đạo Cải cách hành chính của Chính phủ do đồng chí Hà
Công Tuấn - Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn làm Trưởng đoàn đã có buổi
làm việc với UBND tỉnh Bình Thuận về tình hình thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính 9
tháng đầu năm và phương hướng nhiệm vụ 3 tháng cuối năm 2017. Tiếp và làm việc với đoàn có
các đồng chí: Nguyễn Ngọc Hai - Chủ tịch UBND tỉnh; Phạm Văn Nam - Phó Chủ tịch UBND
tỉnh; lãnh đạo các sở, ngành có liên quan.
Trên cơ sở báo cáo của Giám đốc Sở Nội vụ tỉnh Bình Thuận Nguyễn Ngọc Chỉnh về tình
hình triển khai và kết quả công tác cải cách hành chính của tỉnh, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Hà Công Tuấn ghi nhận và đánh giá cao những kết quả mà tỉnh Bình
Thuận đã đạt được trong việc thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính thời gian qua. Nhất là
việc triển khai nhiều mô hình mới trong công tác chỉ đạo điều hành được tỉnh thực hiện như:
Tổ chức ký cam kết trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương trong thực
hiện nhiệm vụ cải cách hành chính; xây dựng mục Hỏi - Đáp trên Cổng thông tin điện tử tỉnh
TIN NỔI BẬT CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
và các Trang tin điện tử các cơ quan, đơn vị, địa phương; lãnh đạo tỉnh đối thoại trực tiếp với
người dân và doanh nghiệp…
Trong thời gian tới, đồng chí Hà Công Tuấn đề nghị lãnh đạo tỉnh Bình Thuận tiếp tục quan
tâm đẩy mạnh công tác tuyên truyền về cải cách hành chính; chú trọng nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, đạo đức trong thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính của đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức; nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu trong thực hiện cải cách hành chính,
tăng cường đối thoại trong giải quyết các vướng mắc, khó khăn về thủ tục hành chính; thực hiện
tốt công tác niêm yết, công khai, minh bạch các thủ tục hành chính…
Phòng Cải cách hành chính, Sở Nội vụ tỉnh Bình Thuận
Nguồn: binhthuan.gov.vn
TIN NỔI BẬT CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
TIN ĐỊA PHƯƠNG
HÀ NỘI: CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
PHẢI HẠN CHẾ DÙNG TIẾNG ĐỊA PHƯƠNG
Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch thành phố Hà Nội vừa trình UBND thành phố dự thảo quy
định về chuẩn mực văn hóa phát ngôn của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong
các cơ quan thuộc thành phố.
Theo dự thảo, việc phát ngôn được thực hiện trong giờ hành chính và ngoài giờ hành chính
(trong trường hợp cần thiết, cấp thiết hoặc do lãnh đạo phân công). Cán bộ, công chức khi phát
ngôn không phát ngôn tùy tiện, bày tỏ quan điểm phiến diện trên mạng xã hội, trang cá nhân.
Ngoài ra, những người khi phát ngôn phải có tác phong tự tin, cử chỉ đúng mực, tôn trọng
các giá trị văn hóa và sự khác biệt trong quá trình phát ngôn, không ngắt lời người khác khi chưa
thực sự cần thiết.
Về ngôn ngữ sử dụng trong phát ngôn cần đảm bảo dễ nghe, dễ hiểu, dễ nhớ. Hạn chế nói
ngọng, nói lắp, sử dụng ngôn ngữ địa phương; tuyệt đối không nói trống không, cộc lốc, nói quá
to hoặc quá nhỏ…
Dự thảo quy định cũng nêu việc khi người cùng giao tiếp nóng giận, bức xúc thì cán bộ, công
chức Hà Nội phải bình tĩnh, nhẹ nhàng giải thích, động viên, chia sẻ. Tuyệt đối không nóng giận,
xúc phạm hay dùng vũ lực đối với người khác, trừ trường hợp được pháp luật cho phép…
Nguồn: vietnamnet.vn
ĐÀ NẴNG SẮP XẾP, TINH GIẢN
21 ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng Huỳnh Đức Thơ đã thống nhất chủ trương thực hiện Đề
án sắp xếp, đổi mới tổ chức và hoạt động các đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng giai đoạn 2017 - 2020.
Sở Nội vụ thành phố Đà Nẵng cho biết, thực hiện chủ trương tinh giản bộ máy, biên chế Nhà
nước, từ nay đến năm 2020, Đà Nẵng phấn đấu giảm 21 đơn vị sự nghiệp công lập; trong đó
giảm do sáp nhập, hợp nhất, giải thể 15 đơn vị, chuyển sang công ty cổ phần 6 đơn vị.
Nguồn: sggp.org.vn
TIN NỔI BẬT CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
CẦN THƠ: 3 NĂM, TINH GIẢN 131 BIÊN CHẾ,
CHỦ YẾU THEO… NGUYỆN VỌNG
Ngày 4/10, Ông Trương Hồng Dự, Phó Giám đốc Sở Nội vụ thành phố Cần Thơ cho biết, từ
năm 2015 đến nay thành phố đã tinh giản được 131 công chức, viên chức. Số lượng tinh giản này
chỉ đạt 5,1% so với quy định (tới năm 2021 thành phố Cần Thơ phải tinh giản tối thiểu 2.529
công chức và viên chức).
Nguyên nhân của việc tinh giản biên chế ít so với yêu cầu là do tâm lý ngại va chạm, nể
nang, muốn giữ ổn định tổ chức, biên chế của cơ quan; người đứng đầu đơn vị, tổ chức chưa
thực hiện triệt để thẩm quyền và trách nhiệm trong việc quyết định và thực hiện tinh giản biên
chế…, từ đó dẫn đến việc tinh giản biên chế hầu như chỉ giải quyết thụ động, theo nguyện vọng
mà thiếu sự chủ động, quyết đoán của cơ quan quản lý.
UBND thành phố Cần Thơ đã yêu cầu các cơ quan, đơn vị và địa phương chưa thực hiện đủ
chỉ tiêu tinh giản biên chế tối thiểu bình quân hằng năm phải thực hiện theo cách tinh giản "cộng
dồn" cho những năm tiếp theo.
Nguồn: tuoitre.vn
KHÁNH HÒA: CÔNG BỐ DANH MỤC
THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TIẾP NHẬN VÀ GIẢI QUYẾT
TRỰC TUYẾN MỨC ĐỘ 3,4
Ngày 22/9/2017, UBND tỉnh Khánh Hòa đã ban hành Quyết định công bố danh mục thủ tục
hành chính (TTHC) tiếp nhận và giải quyết trực tuyến mức độ 3, 4. Tổng cộng là 496 TTHC,
trong đó 450 TTHC mức độ 3 và 46 TTHC mức độ 4, cụ thể như sau: Sở Công thương có 28
TTHC giải quyết trực tuyến mức độ 4 và 27 TTHC giải quyết trực tuyến mức độ 3; Sở Du lịch
có 10 TTHC giải quyết trực tuyến mức độ 3; Sở Giao thông Vận tải có 35 TTHC giải quyết trực
tuyến mức độ 3; Sở Giáo dục và Đào tạo có 9 TTHC giải quyết trực tuyến mức độ 3; Sở Kế
hoạch và Đầu tư có 86 TTHC giải quyết trực tuyến mức độ 3 và 3 TTHC giải quyết trực tuyến
mức độ 4; Sở Khoa học và Công nghệ có 19 TTHC giải quyết trực tuyến mức độ 3; Sở Lao
động, Thương binh và Xã hội có 12 TTHC giải quyết trực tuyến mức độ 3; Sở Nội vụ có 5
TTHC giải quyết trực tuyến mức độ 3; Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn có 25 TTHC giải
quyết trực tuyến mức độ 3; Sở Tài chính có 2 TTHC giải quyết trực tuyến mức độ 4 và 1 TTHC
giải quyết trực tuyến mức độ 3; Sở Tài nguyên và Môi trường có 18 TTHC giải quyết trực tuyến
mức độ 3; Sở Thông tin và Truyền thông có 4 TTHC giải quyết trực tuyến mức độ 4 và 27
TIN NỔI BẬT CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
TTHC giải quyết trực tuyến mức độ 3; Sở Tư pháp có 12 TTHC giải quyết trực tuyến mức độ 3;
Sở Văn hóa và Thể thao có 50 TTHC giải quyết trực tuyến mức độ 3; Sở Xây dựng có 2 TTHC
giải quyết trực tuyến mức độ 3; Sở Y tế có 9 TTHC giải quyết trực tuyến mức độ 4 và 52 TTHC
giải quyết trực tuyến mức độ 3; Ban Quản lý khu kinh tế Vân Phong có 7 TTHC giải quyết trực
tuyến mức độ 3; UBND các huyện, thị xã, thành phố có 45 TTHC giải quyết trực tuyến mức độ
3; UBND xã, phường, thị trấn có 08 TTHC giải quyết trực tuyến mức độ 3.
Tại Quyết định này cũng giao trách nhiệm cho các cơ quan có liên quan tổ chức thực hiện
nghiêm túc và định kỳ báo cáo UBND tỉnh.
Ngọc Liên – Vụ Cải cách hành chính, Bộ Nội vụ (tổng hợp từ nguồn của UBND tỉnh Khánh Hòa)
AN GIANG: ĐÂY MANH THƯC HIÊN
CAC NHIÊM VU, MUC TIÊU
NÂNG CAO CHI SÔ CAI CACH HANH CHINH
Ngày 13/9/2017, UBND tỉnh An Giang đã ban hành Chỉ thị sô 2710/CT-UBND vê viêc đẩy
mạnh thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu nâng cao Chỉ số cải cách hành chính tỉnh nhằm thực hiện
hoàn thành đầy đủ, đúng thời gian các mục tiêu, nhiệm vụ trong theo tiêu chí đánh giá của Chỉ số
cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, thứ hạng của tỉnh trong đánh giá, công bố Chỉ số cải
cách hành chính năm 2017 và những năm tiếp theo. Đông thơi, Chỉ thị sô 2710/CT-UBND thay
thế Chỉ thị số 1767/CT-UBND ngày 01/9/2015 của UBND tỉnh.
UBND tỉnh An Giang yêu câu Sở Nội vụ chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành tỉnh,
UBND các huyện, thị xã, thành phố tham mưu UBND tỉnh thực hiện Đề án xac đinh Chi sô cai
cach hanh chinh mơi (Quyêt đinh sô 4361/QĐ-BNV ngay 28/12/2016 cua Bô trương Bô Nôi vu)
và các yêu cầu của Bộ Nội vụ liên quan đến xác định Chỉ số cải cách hành chính hàng năm; tổ
chức điều tra xã hội học phục vụ xác định Chỉ số cải cách hành chính hàng năm theo yêu cầu của
Bộ Nội vụ; tổ chức điều tra xã hội học đánh giá mức độ hài lòng của người dân, tổ chức về chất
lượng cung cấp dịch vụ hành chính công. Phấn đấu kết quả Chỉ số hài lòng đạt từ 80% trở lên;
bên canh đo, xây dựng Kế hoạch cải cách hành chính của tỉnh, đảm bảo đầy đủ nội dung, thời
gian theo quy định và hướng dẫn của cac bộ, ngành Trung ương. Giám sát việc triển khai, đôn
đốc các cơ quan, đơn vị hoàn thành 100% kế hoạch.
UBND tỉnh An Giang yêu câu Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành tỉnh,
UBND các huyện, thị xã, thành phố triển khai thực hiện, hoàn thành các tiêu chí đánh giá của
Chỉ số cải cách hành chính tỉnh An Giang hàng năm theo Đề án xac đinh Chi sô cai cach hanh
chinh mơi của Bộ Nội vụ đối với lĩnh vực “Xây dựng và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm
pháp luật”. Chú trọng thực hiện các nhiệm vụ, báo cáo việc thực hiện văn bản quy phạm pháp
TIN NỔI BẬT CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
luật trên địa bàn tỉnh đảm bảo về mặt nội dung, thời gian hoàn thành theo quy định, hướng dẫn
của cac bộ, ngành Trung ương tại các tiêu chí như về theo dõi thi hành pháp luật. Rà soát, hệ
thống hóa văn bản quy phạm pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
UBND tỉnh An Giang yêu câu Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh chủ trì, phối hợp với các Sở,
ban, ngành tỉnh, UBND cac huyện, thị xã, thành phố đẩy mạnh triển khai thực hiện, hoàn thành
các tiêu chí đánh giá của Chỉ số cải cách hành chính tỉnh An Giang hàng năm theo Đề án xac
đinh Chi sô cai cach hanh chinh mơi của Bộ Nội vụ đối với các lĩnh vực: Cải cách thủ tục hành
chính; thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông.
UBND tỉnh An Giang yêu câu Sở Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan chuyên môn
cấp tỉnh, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc tỉnh, đơn vị hành chính cấp huyện và các cơ quan, đơn
vị có liên quan thực hiện các giải pháp nhằm triển khai, hoàn thành và đạt điểm tối đa các tiêu
chí đánh giá của Chỉ số cải cách hành chính tỉnh An Giang hàng năm theo Đề án xac đinh Chi sô
cai cach hanh chinh mơi của Bộ Nội vụ, đối với lĩnh vực “Cải cách tài chính công”; đảm bảo
100% số đơn vị sự nghiệp (đã triển khai cơ chế tự chủ) thực hiện đúng quy định về phân phối kết
quả tài chính hoặc sử dụng kinh phí tiết kiệm chi thường xuyên trong năm.
UBND tỉnh An Giang yêu câu Sở Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với các sở,
ban, ngành tỉnh và Ủy ban nhân dân huyện, thị xã, thành phố đẩy mạnh triển khai thực hiện, hoàn
thành các tiêu chí đánh giá của Chỉ số cải cách hành chính tỉnh An Giang hàng năm theo Đề án
xac đinh Chi sô cai cach hanh chinh mơi của Bộ Nội vụ đối với lĩnh vực “Hiện đại hóa hành
chính” (ngoại trừ tiêu chí đánh giá việc áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn
quốc gia TCVN ISO 9001:2008). Xây dựng Kế hoạch Ứng dụng công nghệ thông tin của tỉnh
(hàng năm, trung hạn) và tổ chức thực hiện, giám sát và đôn đốc các cơ quan, đơn vị triển khai,
hoàn thành 100% kế hoạch. Mở rộng cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 trong giải
quyết thủ tục hành chính tại tất cả các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, đơn vị hành chính cấp
huyện trên địa bàn tỉnh. Nâng cao tỷ lệ hồ sơ thủ tục hành chính được xử lý trực tuyến trên tổng
số hồ sơ tiếp nhận trong năm của tất cả các dịch vụ công được triển khai cung cấp trực tuyến
theo chỉ tiêu năm 2017.
UBND tỉnh An Giang yêu câu Sở Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các cơ quan
chuyên môn cấp tỉnh, đơn vị hành chính cấp huyện công bố Hệ thống quản lý chất lượng phù
hợp Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2008 đạt 100% cơ quan, đơn vị; Thường xuyên kiểm
tra, giám sát các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, đơn vị hành chính cấp huyện đã công bố Hệ
thống quản lý chất lượng, đảm bảo 100% cơ quan, đơn vị thực hiện việc duy trì, cải tiến Hệ
thống quản lý chất lượng theo đúng quy định tại Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg ngày 05/3/2014
của Thủ tướng Chính phủ.
UBND tỉnh An Giang yêu câu Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các sở, ban,
ngành tinh, UBND cac huyện thị xã, thành phố đẩy mạnh thực hiện các giải pháp, chủ trương,
chính sách ưu đãi để tạo điều kiện thu hút đầu tư, hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh
TIN NỔI BẬT CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Ngoai ra, các sở, ban, ngành tỉnh, UBND cac huyện, thị xã, thành phố cân chủ động phối
hợp với Sở Nội vụ, Sơ Tư pháp, Sơ Tài chính, Sơ Thông tin và Truyền thông, Sơ Khoa học và
Công nghệ, Sơ Kế hoạch và Đầu tư triển khai thực hiện hoàn thành các nhiệm vụ, tiêu chí Chỉ
số cai cach hanh chinh tỉnh An Giang theo Đề án xac đinh Chi sô cai cach hanh chinh mơi của
Bộ Nội vụ./.
Minh Nguyên - Vụ Cải cách hành chính, Bộ Nội vụ (tổng hợp từ nguồn của UBND tinh An Giang)
VĨNH PHÚC CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN THÔNG BÁO
CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ
CÔNG TÁC CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Ngày 26/9/2017, UBND tỉnh Vĩnh Phúc đã có văn bản chỉ đạo thủ trưởng các sở, ban, ngành
và Chủ tịch UBND các huyện, thành, thị triển khai thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính
phủ về công tác cải cách hành chính, trong đó trọng tâm thực hiện một số nhiệm vụ như:
1. Tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 Khóa X về đẩy mạnh cải
cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước; Nghị quyết số 39-
NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế; Nghị định số 108/2014/NĐ-CP
ngày 20/11/2014 của Chính phủ về sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức; Nghị quyết số 30C/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban
hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020; Nghị quyết số
36a/NQ-CP ngày 14/10/2016 của Chính phủ.
2. Rà soát và thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ cải cách hành chính đã được UBND tỉnh
ban hành trong kế hoạch năm và giai đoạn: Quyết định số 3674/QĐ-UBND ngày 22/12/2015 ban
hành Kế hoạch cải cách hành chính giai đoạn 2016-2020 và Quyết định số 4154/QĐ-UBND
ngày 21/12/2016 ban hành Kế hoạch cải cách hành chính năm 2017.
3. Thực hiện nghiêm túc công tác rà soát thủ tục hành chính tại cơ quan, đơn vị, đảm bảo quy
trình giải quyết thủ tục hành chính trên phần mềm ứng dụng cho Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả
thực hiện theo quy định nhằm nâng cao các chỉ số của tỉnh như: Chỉ số cải cách hành chính , Chỉ
số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh…
4. Người đứng đầu các cơ quan, đơn vị chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh và Chủ tịch
UBND tỉnh về việc tổ chức thực hiện công tác cải cách hành chính và sử dụng phần mềm ứng
dụng cho Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả trong giải quyết thủ tục hành chính theo Quyết định
số 07/2017/QĐ-UBND của UBND tỉnh ban hành quy chế quản lý và sử dụng phần mềm ứng
dụng cho Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả tại các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh; không để
TIN NỔI BẬT CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
tình trạng hồ sơ, thủ tục hành chính giải quyết chậm hạn; chủ động triển khai thực hiện đề án và
thành lập Trung tâm hành chính công cấp tỉnh, cấp huyện đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Trên cơ sở các nhiệm vụ đề ra, UBND tỉnh Vĩnh phúc cũng giao trách nhiệm cho từng sở,
ngành, địa phương có liên quan đến từng nhiệm vụ. Cụ thể:
Giao Văn phòng UBND tỉnh phối hợp với Sở Tư pháp rà soát, đơn giản hóa, công bố công
khai danh mục thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND tỉnh, thực hiện nâng
cấp phần mềm ứng dụng cho Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả đáp ứng yêu cầu giải quyết thủ tục
hành chính để Trung tâm hành chính công cấp tỉnh, cấp huyện đi vào hoạt động.
Giao cho Sở Kế hoạch đầu tư chủ trì, phối hợp với Sở Tài chính, Sở Thông tin và Truyền
thông và các cơ quan có liên quan đề xuất UBND tỉnh ưu tiên bố trí kinh phí triển khai dịch vụ
công mức độ 3, 4 trong năm 2017-2018 theo chỉ đạo của Chính phủ.
Giao cho Sở Thông tin và Truyền thông phối hợp với Sở Nội vụ thực hiện nhiệm vụ trọng
tâm triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 trên địa bàn tỉnh.
Giao cho Thanh tra tỉnh đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực, phối hợp với Sở Nội vụ các các cơ quan có liên quan tổ chức thanh tra, kiểm tra công
vụ đối với các cơ quan, đơn vị, địa phương và cán bộ, công chức, viên chức.
Giao cho Sở Nội vụ bên cạnh việc đôn đốc, theo dõi, kiểm tra công tác cải cách hành chính
tại các sở, ngành, UBND cấp huyện, UBND cấp xã, chủ động tham mưu triển khai Đề án về
sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức.
UBND tỉnh Vĩnh phúc cũng yêu cầu UBND các huyện, thành phố, thị xã nghiêm túc triển
khai các nội dung trên, đồng thời tăng cường thanh tra, kiểm tra đối với các xã, phường, thị trấn,
kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm cán bộ, công chức viên chức thuộc thẩm quyền có hành vi
nhũng nhiễu, tiêu cực, cửa quyền, gây khó khăn, phiền hà cho người dân, doanh nghiệp trong
giải quyết thủ tục hành chính.
Ngọc Anh – Vụ Cải cách hành chính, Bộ Nội vụ (tổng hợp từ nguồn của UBND tỉnh Vĩnh Phúc)
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
MỘT SỐ NỘI DUNG
TRONG ĐÁNH GIÁ CÔNG CHỨC HIỆN NAY
1. Mục tiêu, yêu cầu của hệ thống đánh giá công chức
Mục tiêu, yêu cầu của một hệ thống đánh giá đáng tin cậy là hướng tới sự công bằng, khách
quan và khoa học, giảm tới mức tối đa sự tùy tiện, quyền tự quyết thái quá của cá nhân cũng
như loại bỏ hoàn toàn những quyết định không liên quan đến hiệu quả công việc(1).
Đánh giá đúng, chính xác kết quả làm việc của công chức sẽ cung cấp thông tin cho công
tác quản lý công chức, là căn cứ để lựa chọn, sắp xếp, bố trí, đề bạt, sử dụng công chức đúng
với năng lực, sở trường, là căn cứ để công tác cán bộ chủ động trong việc đào tạo, bồi dưỡng,
rèn luyện và bổ nhiệm cán bộ. Đồng thời, hoạt động đánh giá công chức cung cấp thông tin
phản hồi cho công chức biết về năng lực và thực hiện công việc hiện tại đang ở mức độ nào,
giúp họ phấn đấu để tự hoàn thiện mình và làm việc tốt hơn. Yêu cầu đặt ra đối với việc đánh
giá công chức là:
- Đánh giá công chức phải căn cứ vào các chuẩn mực cụ thể, rõ ràng về chuyên môn nghiệp
vụ, dựa vào các việc làm cụ thể liên quan đến chức trách được giao và chỉ đề cập đến những
hành vi có thể nhận thấy được.
- Chú trọng đánh giá tiềm năng công chức, phát hiện nhân tài để đào tạo, bồi dưỡng trở
thành những nhà lãnh đạo, quản lý.
- Đánh giá kết quả công việc của công chức phải có sự phối hợp, tham gia của cả người
đánh giá và người được đánh giá, trên cơ sở có sự nhất trí về tiêu chuẩn, kết quả đánh giá và
thống nhất về khoảng thời gian xác định để đánh giá.
- Việc đánh giá phải được gắn với mục tiêu lâu dài của từng công chức, như gắn với kế
hoạch đề bạt, kế hoạch nghề nghiệp của mỗi công chức; đồng thời khuyến khích nguyện vọng
chính đáng của mỗi công chức về việc tự hoàn thiện mình.
- Các kết luận đánh giá phải rõ ràng, chỉ ra các bằng chứng xác thực, tránh điển hình hóa cá
nhân và không có sự phân biệt đối xử, không thiên vị.
- Cần tạo ra bầu không khí thảo luận công khai, dân chủ, ở đó mỗi công chức đều được
đánh giá dựa trên điểm mạnh, điểm yếu, thành tích trong công việc, cả những khó khăn, vướng
mắc họ gặp phải.
2. Nguyên tắc, căn cứ và thời điểm đánh giá công chức
Việc đánh giá công chức cần tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản:
Thứ nhất, nguyên tắc công bằng, khách quan. Nội dung đánh giá phải được công khai, đồng
nhất hóa các tiêu chuẩn, các phương pháp để đạt tới sự công bằng, hợp lý trong đánh giá. Thực
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
hiện công tác đánh giá cần phải khách quan, minh bạch, dựa trên nhiều góc độ, nhiều tầng cấp,
tổng hợp các nhân tố chủ quan, khách quan, chống chủ nghĩa cá nhân, phiến diện.
Thứ hai, nguyên tắc chú trọng thành tích thực tế. Nguyên tắc này được rất nhiều nước có
nền hành chính phát triển như: Mỹ, Anh, Trung Quốc, Nhật Bản,... áp dụng. Nguyên tắc này
lấy thành tích thực tế của công chức làm điểm quan trọng nhất trong việc đánh giá. Thành tích
thực tế trong công tác là sự phản ánh khách quan, tổng hợp các năng lực, thái độ và chất lượng
của công chức. Công tác đánh giá phải căn cứ vào yêu cầu về chức vụ và thứ bậc của công
chức để đưa ra những nhận xét, đánh giá phù hợp với thành tích thực tế và hành vi công chức
Ngoài ra, một số nguyên tắc khác cần được chú ý khi tiến hành đánh giá công chức, đó là:
- Nguyên tắc phân loại sát hạch: nhằm khoa học hóa công tác đánh giá để có thể đánh giá
chính xác những biểu hiện về tài đức của công chức, sử dụng hợp lý những người tài giỏi.
Nguyên tắc này yêu cầu phân loại chức vụ, căn cứ vào đặc điểm công tác và đối tượng khác
nhau của công chức mà định ra những nội dung và tiêu chuẩn đánh giá khác nhau, tránh đơn
giản hóa do sử dụng cùng một loại tiêu chuẩn cho mọi chức vụ, mọi công chức.
- Nguyên tắc giám sát dân chủ: yêu cầu tôn trọng sự lựa chọn và giám sát của các cấp lãnh
đạo và của nhân dân. Căn cứ yêu cầu của việc phân loại công chức để áp dụng các hình thức
dân chủ khác nhau đối với các đối tượng công chức khác nhau.
- Nguyên tắc chú ý đến hoàn cảnh khách quan tác động đến công chức; nguyên tắc đánh giá
kịp thời, thường xuyên.
Tùy hoàn cảnh đánh giá cụ thể, chủ thể có thể chú trọng đến một hoặc một số các nguyên
tắc trong đánh giá. Qua nghiên cứu cho thấy, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có
thẩm quyền quyết định đánh giá, phân loại cán bộ, công chức và phải chịu trách nhiệm về
quyết định của mình. Khi đánh giá công chức phải gắn với việc thực hiện nhiệm vụ của người
được đánh giá, đối chiếu với số lượng, khối lượng công việc do cơ quan, tổ chức cấp trên
hoặc người đứng đầu đơn vị giao; làm rõ ưu, khuyết điểm về phẩm chất chính trị, đạo đức,
năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Yêu cầu đặt
ra trong đánh giá công chức là phải đảm bảo chính xác, khách quan, nghiêm túc, công bằng,
vô tư, không thiên vị.
Mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức, đơn vị là một trong những cơ sở để
đánh giá, phân loại công chức. Về nguyên tắc, kết quả đánh giá, phân loại từng đối tượng công
chức không được cao hơn mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Đối với
công chức không đảm nhiệm được các nhiệm vụ tương xứng với chức danh đang giữ (do trình
độ, năng lực hạn chế) thì được phân loại ở mức cao nhất là hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn
hạn chế về năng lực(2).
Việc đánh giá công chức phải căn cứ vào nghĩa vụ của cán bộ, công chức theo quy định của
Luật cán bộ, công chức năm 2008; kết quả công tác cụ thể của mỗi chức danh công chức trong
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
thời gian đánh giá (tháng, quý, năm); tiêu chuẩn chức vụ, chức danh lãnh đạo và tiêu chuẩn
ngạch công chức; chức trách, nhiệm vụ được giao và kế hoạch công tác được phê duyệt; môi
trường và điều kiện làm việc của công chức trong giai đoạn được đánh giá; phẩm chất chính trị,
đạo đức, lối sống. Đồng thời, việc đánh giá công chức cần căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ (tiêu
chuẩn chung và tiêu chuẩn cụ thể); hiệu quả công tác thực tế, hiệu quả về kinh tế; về xây dựng
đảng, chính quyền và đoàn thể; về đoàn kết nội bộ; mức độ tín nhiệm của cấp dưới, đồng
nghiệp và quần chúng; môi trường và điều kiện công tác, căn cứ vào trách nhiệm liên đới; xem
xét tổng thể các mối quan hệ xã hội và gia đình...
Thời điểm đánh giá, phân loại công chức: việc đánh giá phân loại công chức được thực
hiện theo từng năm công tác. Thời điểm đánh giá, phân loại công chức được tiến hành trong
tháng 12 hàng năm. Kết quả đánh giá là căn cứ quan trọng để bố trí, sử dụng, đào tạo, bồi
dưỡng, nâng ngạch hoặc thăng hạng chức danh nghề nghiệp, quy hoạch, bổ nhiệm, miễn
nhiệm, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện các chính sách khác đối với
công chức.
3. Nội dung đánh giá công chức
Đánh giá công chức phải căn cứ vào kết quả thực hiện nhiệm vụ, theo phương châm: lấy
hiệu quả công tác thực tế làm thước đo để đánh giá phẩm chất, năng lực của cán bộ, công chức.
Công tác đánh giá công chức bao gồm các nội dung sau:
- Đánh giá hiệu quả làm việc của người lao động trong cơ quan quản lý hành chính nhà
nước. Đây là quá trình đánh giá những hoạt động chuyển hóa các yếu tố đầu vào thành đầu ra
nhằm đạt kết quả mong muốn. Đánh giá theo quy trình gắn với mục đích “kiểm tra mức độ
hoạt động của một chương trình như đã dự kiến bằng cách đánh giá hoạt động đang được thực
hiện”(3). Đánh giá công chức theo hiệu quả công việc có thể được biểu hiện thông qua thời
gian, cách thức thực hiện, những chuẩn mực về thái độ hành vi khi thực hiện công việc (tập
trung vào sự tuân thủ chặt chẽ các quy định của cơ quan, pháp luật của Nhà nước gắn với cơ
chế kiểm soát quy trình).
- Đánh giá năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người lao động: việc đánh giá
tập trung vào sự tận tụy, có tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, công việc được
giao, có năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phối hợp chặt chẽ và có hiệu quả với đồng
nghiệp, cơ quan, tổ chức có liên quan trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ, có tinh thần
chủ động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao, hoàn thành 100% nhiệm vụ
theo chương trình, kế hoạch công tác năm, vượt tiến độ, có chất lượng và hiệu quả; có ít nhất
01 công trình khoa học, đề án, đề tài hoặc sáng kiến được áp dụng có hiệu quả trong hoạt động
công vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị được cấp có thẩm quyền công nhận…(Nghị định số
88/2017/NĐ-CP ngày 27/07/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về đánh giá và phân loại CB, CC, VC).
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
- Đánh giá phẩm chất đạo đức; tinh thần, thái độ làm việc của công chức: việc đánh giá
dựa trên các tiêu chí gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước; có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt; có lối sống, tác phong, lề lối làm
việc chuẩn mực, lành mạnh; duy trì kỷ luật, kỷ cương trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; có thái
độ đúng mực và xử sự văn hóa trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ, thực hiện tốt việc phòng,
chống các hành vi cửa quyền, hách dịch, gây khó khăn, phiền hà, tiêu cực, tham nhũng, tham
ô, lãng phí; không để xảy ra các vụ, việc vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật phải xử lý trong
phạm vi quản lý.
Đối với công chức làm lãnh đạo, quản lý, ngoài các nội dung nêu trên còn được đánh giá
theo các nội dung như: kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao lãnh đạo,
quản lý; năng lực lãnh đạo, quản lý; năng lực tập hợp, đoàn kết cấp dưới.
4. Một số phương pháp đánh giá công chức hiện nay
- Phương pháp đánh giá cho điểm
Theo phương pháp này, thủ trưởng đơn vị xem xét từng tiêu chí đánh giá (đặc điểm của
công chức được đánh giá) và cho điểm hoặc xếp hạng dựa trên một thang đánh giá được xây
dựng từ trước. Thông thường thang đánh giá (thang điểm) gồm một số bậc được xếp hạng từ
thấp tới cao, từ “kém” cho tới “xuất sắc” hoặc sắp xếp tương tự.
Mỗi đặc điểm cần đánh giá có một thang điểm phù hợp. Thông thường các đặc điểm cần
đánh giá về công chức bao gồm mức độ hợp tác trong công việc, khả năng trao đổi, diễn đạt
thông tin, tính sáng tạo, chấp hành kỷ luật về giờ giấc, nội quy làm việc, kỹ năng làm việc và
một số đặc điểm khác tùy thuộc vào yêu cầu và điều kiện cụ thể của từng đối tượng công chức.
Ưu điểm lớn nhất của phương pháp đánh giá cho điểm là có kết cấu rõ ràng. Việc tiêu
chuẩn hoá cho phép việc xếp hạng công chức trở nên dễ dàng trong toàn đơn vị. Theo phương
pháp này, mọi công chức đều phải trải qua quá trình đánh giá với các tiêu chí và thang điểm
đánh giá cơ bản giống nhau. Điều này tạo ra sự bình đẳng trong việc đánh giá nhân viên, có vai
trò như một thước đo thành tích chuẩn trong toàn bộ tổ chức. Vì vậy, đây là phương pháp phổ
biến và được áp dụng rộng rãi.
Tuy nhiên, các tiêu chí đánh giá của phương pháp đánh giá cho điểm trong một số trường
hợp không liệt kê được toàn bộ các công việc mà công chức đang đảm nhận, bởi các tiêu chí
này cố định và được tiêu chuẩn hoá nên một số đặc điểm sẽ có mối liên quan chặt chẽ với một
công việc nào đó so với các công việc khác. Ví dụ: đặc điểm tính sáng tạo không phải lúc nào
cũng cần thiết đối với những công việc có quy trình rõ ràng hoặc được kết cấu một cách chặt
chẽ. Trong những trường hợp như vậy, đánh giá thấp về tính sáng tạo không có nghĩa công
chức đó thiếu tính sáng tạo. Ngược lại, điều đó phản ánh một thực tế là công chức đó ít có cơ
hội sử dụng hoặc thể hiện đặc điểm trên. Do đó, cần phải xem xét, cân nhắc kỹ tới loại hình
công việc và đặc thù môi trường làm việc khi xây dựng phương pháp đánh giá này.
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Ngoài ra, khi xây dựng tiêu chí đánh giá (đặc điểm cần đánh giá công chức) và thang điểm
đánh giá người thiết kế cần bao quát toàn bộ những dấu hiệu có liên quan tới đặc thù công việc
của công chức.
- Phương pháp đánh giá mô tả
Thủ trưởng đơn vị thể hiện đánh giá của mình về cấp dưới bằng việc viết một bản báo cáo
đánh giá. Báo cáo đánh giá thường tập trung mô tả những điểm mạnh và điểm yếu cụ thể nào
đó về thành tích công việc của công chức. Trong báo cáo đánh giá, người quản lý có thể đề
xuất các biện pháp nhằm khắc phục những tồn tại trong quá trình làm việc. Thủ trưởng cơ
quan có thể tự mình viết báo cáo đánh giá hoặc có thể kết hợp cùng với người được đánh giá
viết báo cáo.
So với phương pháp cho điểm, phương pháp đánh giá mô tả cho phép người đứng đầu tổ
chức có thể thực hiện đánh giá hầu hết mọi khía cạnh có liên quan tới kết quả thành tích công
việc của người được đánh giá. Đây là điểm khác biệt rõ rệt với những phương pháp khác có các
tiêu chí đánh giá được quy định một cách cứng nhắc, không mềm dẻo.
Khi áp dụng phương pháp đánh giá này, người lãnh đạo có thể chủ động đưa ra mức độ
đánh giá về các vấn đề mà họ cảm thấy là phù hợp và hợp lý.
Tuy nhiên, đây là phương pháp tiêu tốn nhiều thời gian và không dễ thực hiện. Đối với
người đánh giá, phương pháp này đòi hỏi những yêu cầu khắt khe hơn so với phương pháp
đánh giá khác, đặc biệt về khả năng diễn đạt và tổng hợp.
Sự mô tả về thành tích công việc của công chức dễ dẫn đến những đánh giá mang tính chủ
quan, cảm tính. Do vậy, rất khó có thể so sánh và đối chiếu kết quả đánh giá của những người
được đánh giá khác nhau.
- Phương pháp đánh giá theo kết quả (hay còn gọi là phương pháp đánh giá quản trị mục
tiêu)
Phương pháp này tập trung vào kết quả mà công chức đạt được trong quá trình làm việc.
Thành tích công việc của công chức được xác định dựa trên mức độ đạt được của họ so với
mục tiêu công việc đã được tổ chức xác định từ trước. Thông thường, các mục tiêu này được
lãnh đạo đơn vị và cấp dưới cùng xây dựng. Quá trình xây dựng mục tiêu là quá trình mà
công chức cần tự xác định những năng lực, trình độ cần thiết để đạt được các mục tiêu đã đặt
ra. Họ không cần người khác phải phân tích các điểm mạnh, điểm yếu của mình để giao
nhiệm vụ và phân bổ các nguồn lực (bao gồm cả quyền hạn và trách nhiệm) để có thể hoàn
thành công việc. Chính bản thân người công chức đòi hỏi phải tự giám sát quá trình phát triển
của bản thân mình.
Phương pháp đánh giá quản trị mục tiêu khắc phục được một số vấn đề phát sinh do giả
định rằng những đặc điểm cần thiết để hoàn thành tốt công việc của công chức có thể xác định
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
và đo lường một cách đáng tin cậy. Thay vì phải giả định về những đặc điểm của người lao
động, phương pháp đánh giá quản trị mục tiêu tập trung vào kết quả công việc thực tế.
Cơ sở lý luận của phương pháp đánh giá quản trị mục tiêu là có thể nhìn nhận được kết
quả công việc một cách trực tiếp, trong khi đặc điểm của công chức (có thể có hoặc có thể
không ảnh hưởng tới thành tích công việc) chỉ có thể được suy đoán hoặc suy luận mang tính
định tính.
Phương pháp đánh giá quản trị mục tiêu giúp người công chức có được cảm giác hài lòng
về tính tự chủ trong việc đánh giá và sự hoàn thành mục tiêu. Nhưng mặt khác, phương pháp
này có thể dẫn tới kỳ vọng không thực tế về một mục tiêu có thể hoặc không thể hoàn thành
một cách hợp lý.
Một điểm mạnh của phương pháp đánh giá theo kết quả là tính rõ ràng của mục tiêu.
Nhưng đó cũng chính là điểm yếu của phương pháp này bởi vì những mục tiêu tự bản thân nó
lại tạo ra sự cứng nhắc. Do đó, những mục tiêu này cần xây dựng sao cho có thể thay đổi và
mềm dẻo hơn. Nhưng mục tiêu càng mềm dẻo bao nhiêu thì sẽ càng không rõ ràng bấy nhiêu.
Mục tiêu thay đổi sẽ làm công chức bối rối và mục tiêu mềm dẻo có thể bị méo mó, sai lệch để
ngụy biện cho những yếu kém trong thành tích công tác.
Ngoài 03 phương pháp chủ yếu nêu trên, dưới góc độ hành chính học, có thể kể đến một số
phương pháp đánh giá công chức phổ biến như: phương pháp xếp hạng luân phiên; phương
pháp quan sát hành vi; phương pháp tự đánh giá; phương pháp kiểm tra sát hạch; phương pháp
phỏng vấn đánh giá… Hiện nay, việc đánh giá công chức trong bộ máy hành chính nhà nước
được thực hiện theo quy định tại Quyết định số 11/1998/QĐ-TCCP-CCVC của Bộ trưởng –
Trưởng ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ ban hành Quy chế đánh giá công chức hàng năm;
Luật cán bộ, công chức năm 2008; Luật Thi đua, khen thưởng năm 2003 và Luật Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng năm 2005; Quyết định số 286-QĐ/TW ngày
08/2/2010 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng “Về việc ban hành quy chế đánh
giá cán bộ, công chức”; Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/03/2010 của Chính phủ về
tuyển dụng, sử dụng và đánh giá công chức; Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015, bổ
sung tại Nghị định 88 năm 2017 về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức và một
số văn bản mang tính chất định hướng khác.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, kết quả đánh giá chưa đem lại sự tin cậy làm căn cứ quản lý,
sử dụng cán bộ, công chức. Tính hình thức trong đánh giá còn phổ biến, công tác đánh giá còn
chiếu lệ, dễ người, dễ ta; nặng về thành tích nên cào bằng hay chấp nhận bản tự nhận xét của cá
nhân. Nguyên nhân là do chưa xây dựng được bộ tiêu chí cụ thể để làm cơ sở đánh giá; chưa
căn cứ vào khối lượng, yêu cầu công việc được giao cho từng cá nhân cũng như chưa lấy kết
quả đầu ra làm thước đo, thiếu các nội dung trọng tâm trong đánh giá; tính khách quan, khoa
học cũng như mục đích sử dụng kết quả đánh giá chưa rõ. Xin đề xuất một số nội dung góp
phần nâng cao chất lượng công tác đánh giá công chức hiện nay như sau:
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Thứ nhất, khuyến khích thảo luận trong quá trình đánh giá. Nhiều nghiên cứu cho thấy,
người được đánh giá thường cảm thấy hài lòng với kết quả đánh giá hơn nếu họ có cơ hội được
trao đổi, thảo luận về kết quả thành tích công việc của mình một cách thoải mái và thẳng thắn.
Ngoài ra, khi được nói về chính thành tích của mình, người được đánh giá còn cảm nhận được
tính công bằng của quá trình đánh giá.
Thứ hai, ý kiến nhận xét phải mang tính xây dựng. Người được đánh giá cần nhận thấy
những ý kiến nhận xét có tính chất phê bình là mang tính xây dựng, nhằm mục tiêu giúp họ
vượt qua những khó khăn hiện tại và cải thiện kết quả thành tích công việc trong tương lai.
Người được đánh giá sẽ bớt lo lắng về những ý kiến phê bình và nhận thấy những ý kiến phê
bình này là hữu ích, nếu như họ nhận thấy ý định của người đánh giá mang tính xây dựng.
Ngược lại, những nhận xét thiếu tính xây dựng (nhận xét không rõ ràng, không được thông
báo tới người được đánh giá, không công bằng hoặc không được thể hiện đúng cách) sẽ dẫn đến
trạng thái bực tức, căng thẳng, gây mâu thuẫn trong công việc, khiến người được đánh giá có
hành vi phản kháng, thái độ không công nhận yếu kém và dẫn đến kết quả công tác tồi tệ.
Thứ ba, coi trọng xây dựng mục tiêu phấn đấu. Đây là một nhân tố quan trọng trong động
cơ làm việc của người được đánh giá, bởi nó khuyến khích sự nỗ lực của công chức, tập trung
chú ý, tăng tính kiên trì, bền bỉ, khuyến khích tìm tòi phương pháp làm việc mới và tốt hơn.
Những mục tiêu phấn đấu cụ thể làm công chức đạt được thành tích công việc cao hơn so với
những mục tiêu dễ đạt được, mơ hồ hoặc không có mục tiêu phấn đấu nào cả.
Thứ tư, người đánh giá phải có trình độ, kinh nghiệm và sự công bằng. Để có được kết quả
đánh giá phản ánh đúng thành tích công việc của công chức, thủ trưởng đơn vị phải là người có
chuyên môn, có kiến thức và được tín nhiệm. Hơn nữa, họ phải cảm thấy thoải mái với phương
pháp, kỹ thuật đánh giá được áp dụng và am hiểu công việc cũng như quá trình phấn đấu, lao
động của cấp dưới.
Khi các điều kiện này được thoả mãn, người được đánh giá sẽ cảm nhận được quá trình
đánh giá là chính xác và công bằng. Do đó họ dễ dàng chấp nhận những ý kiến phản hồi từ phía
người đánh giá và sẵn sàng thay đổi.
Ghi chú:
(1) Nguyễn Thu Huyền (Chủ nhiệm) “Nghiên cứu kinh nghiệm tuyển dụng và đánh giá công chức của một
số nước trên thế giới”, Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ.
(2) TS. Lại Đức Vượng, Đánh giá cán bộ, công chức, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 9/2014, tr.48.
(3) Trần Kim Dung, “Quản trị nguồn nhân lực”, tái bản lần thứ 9, Nxb Lao động xã hội, H.2012.
ThS. Lê Thị Huyền Trang - Viện Khoa học Tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ
Nguồn: tcnn.vn
GÓC NHÌN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
GIẢI PHÁP NÀO ĐỂ BỘ MÁY HÀNH CHÍNH
KHÔNG PHÌNH TO?
Hiện nay ở nước ta có 3 cơ quan quản lý về tổ chức biên chế. Đó là Quốc hội, Ban Tổ chức
Trung ương (quản lý về các cơ quan Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể), Chính phủ (quản
lý cơ quan hành chính các cấp, các đơn vị sự nghiệp công lập).
Thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ công chức,
viên chức, 2 năm qua việc quản lý Bộ, ngành chủ yếu theo đầu mối, phân cấp mà chưa chú ý
thu gọn các Cục, Vụ, dẫn đến việc giảm đầu mối nhưng thực chất lại tăng số Cục, Vụ.
Ông Lê Mạnh Hà, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ đánh giá, chúng ta thu gọn đầu
mối các Bộ nhưng Tổng cục, Cục nhiều hơn có nghĩa là các địa phương, nhân dân vẫn bị phiền
hà bởi các bộ trong Bộ này. Việc đó cũng đồng nghĩa giảm đầu mối nhưng thực chất lại tăng
lên rất nhiều, không kiểm soát được, không có cơ quan nào giám sát, chỉ có cấp Bộ giám sát
Tổng cục, Cục. Do đó, thời gian tới phải có giải pháp rất triệt để hạn chế việc tăng lên, thậm
chí phải giảm xuống.
Trong Dự thảo báo cáo giám sát Việc thực hiện chính sách, pháp luật về cải cách tổ
chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011- 2016 mới được trình Ủy ban Thường
vụ Quốc hội tháng 9 vừa qua, đoàn giám sát của Quốc hội cho rằng, tổ chức bộ máy bên
trong Bộ, cơ quan ngang Bộ vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian, số đầu mối
đơn vị hành chính tăng lên.
5 năm qua, số đơn vị hành chính thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ mặc dù đã thực hiện sắp xếp
điều chỉnh ở nơi này, nơi khác nhưng về tổng thể vẫn tăng 28 đơn vị. Số đơn vị hành chính trực
thuộc Tổng cục tăng 822 đơn vị. Xu hướng nâng cấp Vụ lên cấp Cục diễn ra ở nhiều Bộ. Một
số Bộ, cơ quan ngang Bộ vẫn duy trì nhiều Phòng trong các Vụ chuyên môn.
Để tinh giản bộ máy, mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 98/2017/NĐ-CP về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức ngành của Bộ Công Thương. Theo đó, Bộ
Công Thương giảm từ 35 đơn vị, đầu mối trực thuộc xuống còn 30. Cơ quan này sẽ bỏ Vụ Phát
triển nguồn nhân lực, Vụ Thi đua khen thưởng và Vụ Kế hoạch. Các Vụ Thị trường châu Âu và
Vụ Thị trường châu Mỹ hợp nhất thành Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ.
GÓC NHÌN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Tương tự, Vụ Thị trường châu Á - Thái Bình Dương được hợp nhất cùng Vụ Thị trường
châu Phi, Tây Á, Nam Á thành Vụ Thị trường châu Á - châu Phi. Cùng với Bộ Công thương,
Bộ Nội vụ cũng đã sắp xếp lại theo hướng thu gọn đầu mối.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân cho biết, Nghị định số 34/2017/NĐ-CP của Chính phủ
quy định Bộ Nội vụ chỉ giảm 1 trường Đào tạo Bồi dưỡng cán bộ công chức, nhưng khi Bộ
Nội vụ sắp xếp đơn vị bên trong, Bộ giải thể thêm 3 trường nữa và giải thể 2 đơn vị là cơ
quan đại diện trực thuôc Văn phòng Bộ ở Đà Nẵng và TP.HCM. Hiện nay, Bộ không còn
Phòng trong Vụ nữa. Việc sắp xếp cơ cấu bên trong tránh chồng lấn chức năng các Vụ và các
trường với nhau.
Cách làm của Bộ Nội vụ và Bộ Công Thương cho thấy việc tổ chức sắp xếp bên trong đơn
vị là vấn đề quan trọng trong thực hiện tinh giản biên chế, giảm đầu mối.
Theo Tiến sĩ Đinh Duy Hòa, nguyên Vụ trưởng Vụ Cải cách hành chính, Bộ Nội vụ, cải
cách tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước thời gian qua còn nhiều hạn chế vì chưa được thực
hiện trên nền tảng khoa học, chưa có tầm nhìn dài hơi, gặp đâu làm đó, tùy theo cảm hứng
người đứng đầu dẫn đến hay thay đổi.
Các điều kiện đảm bảo cho công tác cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, nhất là
chất lượng đội ngũ công chức còn hạn chế. Do vậy, vấn đề quan trọng thời gian tới là quản lý
và kiểm soát được cơ cấu bên trong các đơn vị bằng pháp luật. Cần có một Nghị định quy định
cụ thể về tiêu chuẩn, điều kiện thành lập các Vụ, Cục, Tổng cục để tránh tình trạng "nâng cấp"
như vừa qua.
“Quốc hội nên giao Chính phủ nghiên cứu xây dựng một Nghị định về Phòng, Vụ, Cục,
Tổng cục. Những đơn vị tổ chức hành chính này được quy định theo hướng thống nhất, có tiêu
chí cụ thể. Các quy định như vậy đưa vào trong văn bản và văn bản này báo cáo Ủy ban
Thường vụ Quốc hội trước khi ban hành, thống nhất trong bộ máy hành chính” - ông Đinh Duy
Hòa nêu ý kiến.
Chính phủ đã thể hiện rõ quyết tâm xây dựng một Chính phủ liêm chính, kiến tạo, hành
động, phát triển và tinh thần đó cần phải được thể hiện trong cải cách hành chính. Thêm vào
đó, gánh nặng ngân sách, áp lực nợ công đang tạo sức ép lớn đối với việc cải cách, tinh gọn bộ
máy. Bởi không nguồn ngân sách nào “nuôi” nổi một bộ máy hành chính cồng kềnh và kém
hiệu quả như hiện nay.
GÓC NHÌN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Tổ chức, sắp xếp các cơ quan trong bộ máy hành chính Nhà nước theo hướng gọn nhẹ,
giảm đầu mối, giảm cấp trung gian, rõ ràng về chức năng, quyền hạn và trách nhiệm đang là
một yêu cầu rất cấp thiết./.
Nguồn: vov.vn
TINH GỌN BỘ MÁY:
LẤY ĐÁ GHÈ CHÂN MÌNH CŨNG PHẢI LÀM
Tinh giản biên chế, thu gọn bộ máy lâu nay được xem là khó và nhạy cảm, bởi không ai lấy
đá ghè chân mình.
Câu chuyện tinh giản biên chế, giảm bớt đầu mối, cải cách bộ máy tinh gọn, hiệu quả ở
nước ta được đặt ra suốt nhiều năm qua. Nhưng, nhìn vào thực tế, sự chuyển động còn rất
khiêm tốn.
Càng hô hào giảm đầu mối, giảm biên chế, ở từng ngành, từng lĩnh vực, biên chế, đầu mối
lại tăng thêm. Số bộ, ngành giảm xuống còn 22 nhưng lại có tới 198 đơn vị trực thuộc có tư
cách pháp nhân.
Tổng biên chế cả nước tính đến ngày 31/12/2015 là 3.563.000 người, nhưng đến ngày
01/2/2017 không những không giảm, mà còn tăng lên gần 3.600.000 người.
Nguy cơ hành chính hóa, tăng tầng nấc trung gian ở một số ban này ban kia, gây nên tình
trạng kiểu như "cung vua phủ chúa" là hiện hữu. Một số bộ nâng cấp cục thành tổng cục, trong
tổng cục có đủ cục, phòng, chẳng khác một bộ thu nhỏ.
Nhận xét về chất lượng đội ngũ công chức, viên chức hiện nay, có luồng ý kiến rằng, một
số lượng không nhỏ công chức, viên chức làng nhàng, "sáng cắp ô đi, tối cắp ô về".
Thực trạng tiêu cực của bộ máy hành chính và một bộ phận đội ngũ công chức, viên chức
hiện nay đang gây khó cho sự ổn định và phát triển đất nước. Nó làm phân tán và hao mòn
nguồn lực đất nước. Nó tăng thêm lực cản từ sự trì trệ, quan liêu, bảo thủ.
Những chủ trương, chính sách, dù tích cực, ưu việt đến mấy, thật khó đi vào cuộc sống mà
không bị méo mó, lạm dụng, khi được chuyển hóa qua đội ngũ công chức, viên chức làng
nhàng và bộ máy cồng kềnh, nhiều tầng nấc. Nó cũng là môi trường lý tưởng cho nạn tham
GÓC NHÌN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
nhũng vặt đến tham nhũng khủng phát sinh. Và hơn hết, từng ngày, theo thời gian, nó làm xói
mòn lòng tin của người dân với thể chế, tăng thêm nguy cơ đe dọa sự tồn tại của chế độ.
Ngay bây giờ, nếu hỏi những người đứng đầu các cơ quan, đơn vị hành chính, hệ thống
chính trị, rằng có sẵn sàng tinh giản biên chế, thu gọn đầu mối, thì đoan chắc, đa số sẽ nói...sẵn
sàng. Nói sẵn sàng, nhưng hãy nhìn xem, họ sẽ không hành động; nếu có, hành động cầm
chừng, lấy lệ, rất khiêm tốn.
Thêm biên chế là thêm lợi lộc
Không ai lấy đá tự ghè vào chân mình. Câu chuyện tinh giản biên chế, thu gọn đầu mối liên
quan đến lợi lộc, quyền lực cá nhân và các mối quan hệ. Thêm đầu mối, thêm biên chế là là
thêm lợi lộc, khi nguồn ngân sách cấp rót tăng lên; cơ hội đưa người thân vào bộ máy mở ra...
Tương ứng, họ sẽ thêm vây thêm cánh để thực hiện những quyết định gọi là "đúng quy
trình" nhưng đầy toan tính, vụ lợi, có lợi cho một nhóm người.
Tinh gọn, tinh giản bộ máy, biên chế là lĩnh vực khó, nhạy cảm, nhưng không thể không
tiến hành và không thể không đi tới đích cuối cùng.
Nhìn rộng ra, công cuộc đấu tranh chống tham nhũng mà Đảng và nhân dân ta đang tiến
hành còn khó khăn, phức tạp và nhạy cảm hơn nhiều lần. Nhưng rõ ràng là công cuộc này đang
đi những bước thành công vững chắc.
Kinh nghiệm từ sự chỉ đạo, điều hành đấu tranh chống tham nhũng kiên quyết và bài bản
của đảng ta đang tiến hành sẽ là kinh nghiệm tốt cho công cuộc cải cách bộ máy hành chính.
Thời điểm này thúc đẩy công cuộc đổi mới thể chế, tinh gọn, tinh giản bộ máy, biên chế là
phù hợp. Quá trình đấu tranh chống tham nhũng thời gian qua làm hé lộ những điểm khuất,
điểm mờ trong bộ máy hành chính, xuất hiện nhiều sự vụ "đúng quy trình" nhưng lại gây hậu
quả nghiêm trọng.
Đây cũng là thời điểm một số mô hình thí điểm cải cách, đổi mới công tác cán bộ, nhân sự,
sắp xếp lại bộ máy hành chính, hệ thống chính trị ở một số tỉnh, thành phố và bộ, ngành đã
được kiểm chứng, đánh giá qua thực tiễn. Mặt khác, bối cảnh hội nhập và yêu cầu của thực tiễn
đời sống chính trị nước ta hiện nay thúc giục chúng ta phải mạnh mẽ cái cách, đổi mới.
Một chính phủ liêm chính, kiến tạo, phục vụ, hướng về người dân và doanh nghiệp chỉ
thành hiện thực khi tạo ra được hệ thống điều hành thông suốt, linh hoạt và sáng tạo, nói đi đôi
với làm.
GÓC NHÌN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Tinh gọn, tinh giản biên chế, đầu mối, đổi mới bộ máy hành chính, hệ thống chính trị, lúc
này, đang là yêu cầu tất yếu của cuộc sống.
Một khi Đảng phất cờ, gương mẫu làm gương; người đứng đầu các cơ quan, đơn vị được
lựa chọn ngày càng thể hiện bản chất liêm chính, tử tế; Chính phủ tạo môi trường khởi nghiệp
và thúc đẩy khởi nghiệp thành công, tạo nhiều cơ hội việc làm và thu nhập; nhân dân đồng
lòng cổ vũ, giám sát... thì công cuộc dù bấy lâu nay được xem là khó, nhạy cảm, sẽ đi tới
thành công.
Nguồn: vietnamnet.vn
“CHƯNG CẤT” LẠI TOÀN BỘ CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC
Trong các cơ quan, đơn vị nhà nước, tỷ lệ cán bộ, công chức là con cháu, bạn bè gửi gắm,
“đánh trống ghi tên” khá phổ biến. Với tình hình hiện nay, nếu không quyết liệt tinh giản biên
chế thì không ngân sách nào có thể chịu nổi. Phải thực hiện một cuộc “chưng cất”, sát hạch lại
toàn bộ cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương, kiên quyết loại khỏi bộ máy
những ai không đáp ứng yêu cầu công việc.
3 nguyên nhân gốc rễ
Có 3 nguyên nhân gốc rễ làm cho bộ máy, biên chế tăng, hoặc có nơi giảm nhưng lại không
giảm một cách thực chất.
Một là, do chúng ta chưa tinh giản được bộ máy. Nói tinh giản, nhưng thực chất lại chỉ giảm
đầu mối, “bóp trên, phình dưới”. Giảm đầu mối các cơ quan bộ, trực thuộc Chính phủ thì lại
phình ra các tổng cục, trong tổng cục lại có các cục, vụ, viện. Đây chính là mô hình tổ chức
“Bộ trong Bộ”, vô hình trung tạo ra một bộ máy lồng ghép ở trong một tổ chức, cơ quan.
Thông thường, trong một cơ quan, đơn vị, một thủ trưởng thì sẽ có một vài “thủ phó”, một thủ
phó thì có một vài nhóm giúp việc. Cứ như thế, bộ máy phình ra, dẫn đến tăng biên chế.
Hai là, chúng ta đưa ra tiêu chí tinh giản biên chế, nhưng lại chưa thực hiện việc sát hạch
lại, chưa thường xuyên đánh giá khách quan, để có một cuộc “chưng cất” thực sự; tức là chưa
có sự thay đổi về “chất”, thay vì thay đổi về “lượng” đối với cán bộ, công chức, để từ đó buộc
những người không đủ tiêu chuẩn, không làm được việc ra khỏi bộ máy. Có không ít trường
GÓC NHÌN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
hợp “ngồi chơi, xơi nước”, làm việc không hiệu quả, nhưng chúng ta không chịu tinh giản,
hoặc không tinh giản được.
Ba là, việc tinh giản biên chế lâu nay chưa thực chất, giảm chủ yếu là người về hưu, chuyển
công tác khác chứ không vì cán bộ, công chức không làm được việc mà tinh giản.
Cần lưu ý rằng, vai trò của người đứng đầu trong tinh giản biên chế là rất quan trọng. Nếu
người đứng đầu không quyết liệt, công tâm trong đánh giá cán bộ thì rất khó tinh giản biên chế.
Trong khi tiêu chí để đánh giá cán bộ, công chức lại chưa cụ thể, còn thiên về định tính thì việc
đánh giá cán bộ hoàn toàn phụ thuộc vào sự “yêu - ghét” của mỗi cá nhân, trong đó có người
đứng đầu. Do vậy, đánh giá không nghiêm sẽ khó tìm ra người để tinh giản. Trong khi đó, chế
tài trong công tác cán bộ vẫn rất chung chung, nên rất khó xử lý người đứng đầu. Bộ luật Hình
sự tuy có quy định tội danh lạm dụng chức vụ, quyền hạn, nhưng để chứng minh được hành vi
lạm dụng quyền lực trong công tác cán bộ là không dễ, bởi chưa có điều, khoản nào quy định
rõ cấu thành cụ thể của những hành vi này.
Mạnh dạn khoán chi hành chính
Người dân không thể đóng thuế mãi để “cõng” cả một bộ máy cồng kềnh, kém hiệu quả, để
nuôi một bộ phận công chức “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về”. Trong tình hình ngân sách hiện nay,
việc tinh giản biên chế thực sự là một sức ép rất lớn. Nếu chúng ta không tinh giản biên chế thì
không thể có ngân sách nào chịu nổi. Để tinh giản biên chế, cần tập trung vào một số giải pháp:
Thứ nhất, phải tái cấu trúc tổ chức bộ máy. Muốn vậy, phải phân định được chức năng của
từng bộ phận cấu thành bộ máy. Phải phân công quyền lực rạch ròi, không có vùng chồng lấn
chức năng, loại bỏ sự phối hợp không đáng có. Trên cơ sở phân định rành mạch chức năng mới
xác định được nhiệm vụ; xác định rõ nhiệm vụ mới định ra được khối lượng công việc; từ công
việc mới định lượng được vị trí việc làm tương ứng với số biên chế là bao nhiêu.
Trong các cơ quan, đơn vị Nhà nước, tỉ lệ cán bộ, công chức là con cháu, bạn bè gửi gắm,
“đánh trống ghi tên”… không nhỏ. Muốn tinh giản biên chế phải thực hiện một cuộc “chưng
cất”, sát hạch lại toàn bộ hệ thống cán bộ, công chức hiện nay, kiên quyết loại những cán bộ,
công chức không đáp ứng được yêu cầu công việc ra khỏi bộ máy.
Thứ hai, cần mạnh dạn khoán chi hành chính. Khoán chi thì người đứng đầu phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật, trước cấp trên về việc tổ chức và vận hành bộ máy. Nếu lạm dụng
quyền lực để đưa người nhà, người thân không đủ tiêu chuẩn vào cơ quan, đơn vị do mình quản
GÓC NHÌN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
lý thì phải chịu trách nhiệm và chịu sự xử lý của pháp luật. Giao trách nhiệm cho người đứng
đầu phải kèm theo chế tài xử lý nếu có vi phạm xảy ra.
Thứ ba, thực hiện thi tuyển cán bộ, công chức một cách nghiêm minh, chặt chẽ. Với chức
danh do bầu cử thì người được đề cử, tiến cử phải trình bày được chương trình hành động trước
tập thể bầu ra mình. Còn chức vụ do bổ nhiệm để đứng đầu bộ máy điều hành thì bắt buộc phải
thi tuyển công khai, cạnh tranh. Theo tôi, để huy động được nhân tài thì chúng ta không nên gò
bó trong khuôn khổ quy hoạch và giới hạn độ tuổi, mà nên “chiêu hiền, đãi sỹ”. Công tác quy
hoạch có động, có tĩnh và có mở.
Thứ tư, chúng ta đang đi trong cách mạng công nghiệp 4.0, nên không đứng ngoài phương
thức quản lý hiện đại. Muốn tinh giản bộ máy, biên chế thì phải ứng dụng mạnh mẽ khoa học
công nghệ. Việc ứng dụng khoa học công nghệ vào tổ chức và vận hành bộ máy sẽ tiết giảm
được nhiều hoạt động có thể thay thế con người, giảm mạnh về biên chế.
Thứ năm, phân định rõ khu vực công và khu vực tư. Nhà nước không nên “ôm” những việc
mà xã hội có thể bảo đảm. Cái nào thuộc khu vực công, mà khu vực tư không thể làm được thì
Nhà nước phải có tổ chức bộ máy để đảm nhiệm. Cái nào khu vực tư nhân làm được thì nên
chuyển cho tư nhân làm. Đồng thời, phải rà soát các đơn vị sự nghiệp công lập để chuyển dần
sang khu vực tư theo hướng này.
Tuy nhiên, cũng cần phải có lộ trình để thực hiện việc tinh giản. Nhà nước rút dần vai trò
của mình trong việc thực hiện các chức năng xã hội bằng cách chuyển đổi chức năng của các
đơn vị công lập. Có bước chuyển giao để công chức, viên chức ở đơn vị đó rút dần ra khỏi khu
vực nhà nước. Cùng với đó, cũng phải tái cấu trúc các tổ chức chính trị - xã hội.
5 giải pháp này phải tiến hành đồng bộ và quyết liệt thì mới đạt được mục tiêu mà Nghị
quyết 39 của Bộ Chính trị đã đề ra.
Nguồn: daibieunhandan.vn
VĂN BẢN – CHÍNH SÁCH
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
BÔ XÂY DƯNG: TRA LƠI KIÊN NGHI CUA UY BAN
NHÂN DÂN TINH TIÊN GIANG
Ngay 22/9/2017, Bô Xây dưng đa ban hanh văn ban sô 2259/BXD-PC vê viêc tra lơi môt sô
kiên nghi , đê xuât cua Uy ban nhân dân tinh Tiên Giang.
1. Đôi vơi nôi dung “Đê nghi Trung ương xem xet trinh Quôc hôi sưa đôi Điêu 25 Luât
Bao vê môi trương đê giai quyêt viêc chông cheo giưa Luât Bao vê môi trương va Luât
Đâu tư; sưa đôi Luât Xây dưng đê thưc hiên thông nhât vơi Luât Đâu tư”
Trả lời:
Trong qua trinh xây dưng, soan thao Luât Xây dưng, Bô Xây dựng đa nghiên cưu, ra soat
môi quan hê vơi cac luât liên quan như Luât Đâu tư, Luât Đâu tư công, Luât Đât đai, Luât Bao
vê môi trương… đê đam bao tinh thông nhât, đông bô giưa cac văn ban quy pham phap luât. Vi
vây, Luât Xây dưng năm 2014 đươc ban hanh vê cơ ban đa bao đam thông nhât, đông bô vơi
cac văn ban quy pham phap luât co liên quan. Tuy nhiên, trong qua trinh triên khai thưc hiên
trên thưc tê con môt sô nôi dung chưa thông nhât giưa cac văn ban quy pham phap luât, Bô Xây
dưng đa ra soat, kip thơi bao cao Chinh phu, Thu tương Chinh phu va kiên nghi cac giai phap
thao gơ vương măc, bât câp tai cac văn ban sô 758/BXD-PC ngay 10/4/2017 bao cao vê viêc ra
soat, sưa đôi, bô sung cac quy đinh cua phap luât liên quan đên đâu tư, kinh doanh, văn ban sô
542/BXD-PC ngay 16/3/2017 bao cao vê viêc ra soat, kiên nghi sưa đôi cac quy đinh cua phap
luât liên quan đên đât đai, xây dưng, nha ơ, đâu tư, kinh doanh… Thơi gian tơi, Bô Xây dưng se
phôi hơp chăt che vơi cac bô, nganh co liên quan xư ly nhưng vương măc, bât câp đê bao đam
tinh thông nhât, đông bô trong hê thông phap luât.
2. Vê nôi dung “Đê nghi Chinh phu sơm ban hanh Nghi đinh thay thê Nghi đinh sô
121/2013/NĐ-CP ngay 10/10/2013 cua Chinh phu quy đinh xư phat hanh chinh trong hoat
đông xây dưng; kinh doanh bât đông san; khai thac; san xuât; kinh doanh vât liêu xây
dưng; quan ly công trinh ha tâng ky thuât; quan ly phat triên nha va công sơ va Nghi đinh
sô 180/2007/NĐ-CP ngay 07/12/2007 cua Chinh phu quy đinh chi tiêt va hương dân thi
hanh môt sô điêu cua Luât Xây dưng vê xư ly vi pham trât tư xây dưng đô thi vi nhiêu căn
cư đa hêt hiêu lưc”.
VĂN BẢN – CHÍNH SÁCH
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Trả lời:
Theo Bô Xây dưng, ngay 19/3/2016, Bô đa trinh Chinh phu ban hanh Nghi đinh quy đinh xư
phat hanh chinh trong hoat đông đâu tư xây dưng; khai thưc, chê biên, kinh doanh khoang san
lam vât liêu xây dưng, san xuât, kinh doanh vât liêu xây dưng; quan ly công trinh ha tâng ky
thuât; kinh doanh bât đông san, quan ly phat triên nha va công sơ (dư thao Nghi đinh). Nghi
đinh nay đươc ban hanh se thay thê Nghi đinh sô 121/2013/NĐ-CP va Nghi đinh sô
180/2007/NĐ-CP cua Chinh phu.
Trong qua trinh lây y kiên Thanh viên Chinh phu, con co y kiên khac nhau đôi vơi dư thao
Nghi đinh, Bô Xây dưng đa phôi hơp vơi Văn phong Chinh phu, cac bô, nganh, cơ quan liên
quan đê ra soat, hoan thiên dư thao Nghi đinh. Đên nay, cac cơ quan liên quan đa thông nhât vơi
nôi dung dư thao Nghi đinh va đê nghi Văn phong Chinh phu hoan tât hô sơ, trinh Thu tương
Chinh phu ky ban hanh.
Minh Nguyên - Vụ Cải cách hành chính, Bộ Nội vụ (tổng hợp từ nguồn của Bộ Xây dựng)
TIN NHÂN SỰ
BẢN TIN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
NHÂN SỰ MỚI CÁC BỘ, NGÀNH, ĐỊA PHƢƠNG
* Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam:
Ông Nguyễn Phước Thanh, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nghỉ hưu theo chế
độ từ ngày 01/10/2017.
*Ngân hàng Phát triển Việt Nam:
Ông Trần Bá Huấn, Ủy viên Hội đồng quản lý, Tổng Giám đốc Ngân hàng Phát triển Việt Nam
nghỉ hưu theo chế độ từ ngày 01/10/2017.
* Viện Kiểm sát nhân dân tối cao: Ngày 02/10, bà Trần Thị Quế Anh, Kiểm tra viên chính,
Trưởng phòng được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó Cục trưởng Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ
thông tin Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (Cục 2).
* Liên minh Hợp tác xã Việt Nam:
Ngày 29/9, ông Nguyễn Ngọc Bảo, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương đã trúng cử chức danh
Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam với 100% số phiều bầu tại Hội nghị Ban chấp hành lần thứ tư
Liên minh Hợp tác xã Việt Nam.
* Quảng Ninh:
Sáng 02/10, ông Hô Văn Vinh , Trưởng Ban Pháp chế chuyên trách HĐND tỉnh được điều
động, bổ nhiệm giữ chức vụ Giám đốc Sở Tư pháp tinh Quang Ninh nhiệm kỳ 2016 – 2021.
* Lai Châu:
Ngày 02/10, ông Đặng Văn Châu được bổ nhiệm giữ chức Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư
tỉnh Lai Châu kể từ ngày 01/10.
* Sơn La:
Ngày 28/9, ông Phạm Hùng Sơn, Phó Giám đốc Bệnh viện Lao và Bệnh phổi, thuộc Sở Y tế tỉnh
Sơn La được bô nhiêm giữ chức vụ Giám đốc Bệnh viện Lao và Bệnh phổi tinh Sơn La kể từ ngày
15/9/2017.
Nguồn: baochinhphu.vn